Theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu, bản chất của Mobile Money là chuyển đổi hình thức của tiền mặt sang tiền điện tử theo tỷ lệ 1:1; đơn vị cung cấp dịch vụ Mobile Money không phải đơn vị phát hành tiền điện tử vì không tạo ra lượng tiền mới đưa vào lưu thông, chỉ chuyển đổi hình thức của tiền mặt để khách hàng có thể sử dụng thanh toán. Khách hàng không được trả lãi với số dư để trong tài khoản thanh toán Mobile Money.

Việc triển khai thí điểm dịch vụ Mobile Money nhằm mục tiêu góp phần phát triển hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, tăng cường tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Bởi vậy, doanh nghiệp (DN) thực hiện thí điểm phải ưu tiên triển khai dịch vụ Mobile Money tại các địa bàn thuộc khu vực này. Hiện nay, cả 3 nhà mạng được phép thí điểm dịch vụ Mobile Money là Vinaphone, Viettel và Mobifone đều cho biết đã sẵn sàng và đang trong quá trình lên phương án, hoàn thiện hồ sơ để các cơ quan chức năng thẩm định.

Mobile Money được tích hợp trên nền tảng ViettelPay.Ảnh: ViettelPay.

Ưu thế của Mobile Money là tận dụng được hạ tầng viễn thông sẵn có, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính không dùng tiền mặt cho các đối tượng là người dân ở khu vực nông thôn, người nghèo, người yếu thế ít có khả năng sử dụng các phương tiện tài chính hiện đại như thẻ ngân hàng, ứng dụng Mobile Banking... Theo các chuyên gia, nếu tận dụng hệ sinh thái sẵn có của các hình thức thanh toán số khác như liên kết với các sàn thương mại điện tử, ví điện tử, các dịch vụ tín dụng khác của ngân hàng... sẽ tạo lợi thế để giảm chi phí thanh toán khi sử dụng dịch vụ Mobile Money. Ông Lê Anh Huy, Phó tổng giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Sen Đỏ (sendo.vn) cho biết: "Khi các nhà mạng viễn thông triển khai thành công Mobile Money thì 100% khách hàng ở Việt Nam chỉ cần có điện thoại di động thông minh là có thể thanh toán trực tuyến. Điều này mang lại lợi ích rất lớn cho thương mại điện tử; giảm được chi phí so với thanh toán dùng tiền mặt, đồng thời tiếp cận được nhiều đối tượng hơn".

Với mục đích không để xảy ra bất cập, tiêu cực trong thí điểm dịch vụ Mobile Money, Quyết định số 316/QĐ-TTg đã nêu rõ các hành vi bị cấm, cụ thể: Cung ứng hoặc sử dụng các kênh, hình thức khác (ngoài các kênh, hình thức nạp tiền, rút tiền đã được quy định) để nạp tiền vào/rút tiền ra từ tài khoản Mobile Money; cung ứng hoặc sử dụng tài khoản Mobile Money cho các nghiệp vụ khác ngoài việc nạp tiền, rút tiền, thanh toán, chuyển tiền đã được quy định; DN thực hiện thí điểm cấp tín dụng cho khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile Money, trả lãi trên số dư tài khoản Mobile Money hoặc bất kỳ hành động nào có thể làm tăng giá trị tiền tệ trên tài khoản Mobile Money so với giá trị tiền khách hàng đã nạp vào tài khoản Mobile Money; DN thực hiện thí điểm hoạt động ngân hàng (cho vay, huy động vốn); cung ứng hoặc sử dụng tài khoản Mobile Money để thực hiện các giao dịch cho mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận và các hành vi vi phạm pháp luật khác...

Đồng tình với những nội dung trên, trao đổi với phóng viên, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nhấn mạnh: "Về cơ bản, 3 DN viễn thông được thực hiện thí điểm đều là các DN lớn có đủ năng lực với mạng lưới rộng, hạ tầng, kỹ thuật thử nghiệm đáp ứng các yêu cầu về an toàn, bảo mật cũng như phòng, chống rủi ro. Các DN này cũng đã có kinh nghiệm khi triển khai ví điện tử trong thời gian vừa qua cả ở trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khi triển khai dịch vụ Mobile Money có thể sẽ có hàng triệu tài khoản giao dịch, với hạn mức tối đa là 10 triệu đồng/tháng thì các nhà mạng có thể thu về hàng nghìn tỷ đồng/tháng, đây là số tiền rất lớn. Bởi vậy, để dịch vụ này triển khai một cách hiệu quả, bền vững, bảo đảm an ninh tiền tệ cần tuân thủ chặt chẽ cơ chế quản lý dòng tiền và phòng ngừa rủi ro". Cũng theo TS Cấn Văn Lực, để tuân thủ cơ chế này, DN thực hiện thí điểm không được sử dụng nguồn tiền từ tài khoản Mobile Money của khách hàng cho các mục đích khác; phải mở tài khoản bảo đảm thanh toán tại ngân hàng thương mại, số dư trên các tài khoản bảo đảm thanh toán phải được duy trì không thấp hơn so với tổng số dư tất cả các tài khoản Mobile Money của khách hàng tại cùng một thời điểm. Bên cạnh đó, DN cũng phải xây dựng cơ chế xử lý rủi ro về thanh khoản để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Tài khoản thanh toán cho dịch vụ Mobile Money phải riêng biệt với các tài khoản thanh toán khác của DN thực hiện thí điểm mở tại ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại có trách nhiệm theo dõi, quản lý để DN thí điểm dịch vụ chỉ sử dụng tài khoản bảo đảm thanh toán cho các nghiệp vụ của dịch vụ Mobile Money. Ngoài ra, các DN thực hiện thí điểm cũng cần xây dựng công cụ để các cơ quan như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an có thể truy cập hệ thống để khai thác thông tin, dữ liệu, giám sát theo thời gian thực tổng số dư của các tài khoản Mobile Money và số tiền trên các tài khoản bảo đảm thanh toán cho dịch vụ Mobile Money của DN. Trên công cụ phải có chức năng để cơ quan quản lý giám sát việc tuân thủ đối với các hành vi bị cấm. DN thí điểm phải phản ánh đầy đủ thông tin về các tài khoản Mobile Money của khách hàng trên công cụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của thông tin này...

Có thể thấy, tuân thủ chặt chẽ cơ chế quản lý dòng tiền và phòng ngừa rủi ro, có phương án giảm thiểu chi phí và mở rộng thị trường sẽ là những yếu tố giúp Mobile Money trở thành công cụ có tính phổ cập, góp phần bảo đảm quyền bình đẳng của mọi người dân trong tiếp cận các dịch vụ thiết yếu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, vốn là một trong những mục tiêu quan trọng của tài chính toàn diện.

DƯƠNG SAO