Sản phẩm du lịch kết nối

Trong khoảng 8.000 lễ hội của Việt Nam, Yên Tử được coi là một trong những lễ hội lớn nhất, thu hút đông người tham dự nhất. Danh thắng Yên Tử với hàng chục ngôi chùa, hàng trăm am tháp, hàng ngàn di vật cổ giữa núi rừng trùng điệp, thác đổ quanh năm, suối reo giữa rừng đại ngàn... tạo nên một cảnh trí thiên nhiên hùng vĩ. Đã thành nét văn hoá truyền thống, Lễ hội Yên Tử hằng năm là điểm hẹn của mùa xuân. Những ngày đầu năm nay, lượng khách về Yên Tử có phần chưa nhiều như mọi năm nhưng ngay từ những ngày trước khai hội (tính tới hết ngày 9 tháng Giêng) đã có khoảng 265.000 lượt du khách hành hương về kinh đô Phật giáo. Quyền trưởng ban quản lý di tích quốc gia Yên Tử, Lê Tiến Dũng cho biết, ước tính, lễ hội Yên Tử năm nay sẽ thu hút hàng triệu lượt khách.

Yên Tử đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt ngày 27-9-2012. Yên Tử cũng thu hút nhiều dự án, công trình tôn tạo, bảo tồn các chùa, am, tháp, nâng cấp đường giao thông, đường hành hương, đầu tư hệ thống cáp treo, điện chiếu sáng, bến xe quay đầu, hệ thống xe điện trung chuyển du khách, nhà hàng, dịch vụ... Nhưng tỉnh Quảng Ninh còn tính toán dài hơi hơn khi gắn kết Yên Tử với các di tích lịch sử và các điểm du lịch trên địa bàn tỉnh và thành phố như chùa Ba Vàng, chùa Phổ Am, đình Đền Công, chùa Long Khánh, miếu Cổ Linh, thác Lựng Xanh, hồ Yên Trung. Ngày 6-1 vừa qua, UBND tỉnh Quảng Ninh đã công nhận tuyến, điểm du lịch đặc biệt này.

Ngoài ra, để biến Yên Tử thành Trung tâm du lịch tâm linh, sinh thái của toàn tỉnh, ông Nguyễn Anh Tú, Chủ tịch UBND TP Uông Bí cho biết, chính quyền và nhân dân thành phố cũng đang cố gắng để khai thác tối ưu tiềm năng du lịch của Yên Tử và gắn kết với Ngọa Vân, cụm di tích Nhà Trần Đông Triều, quần thể di tích Bạch Đằng Quảng Yên, Rừng quốc gia Yên Tử và Vườn thuốc quốc gia.

Sức hút Yên Tử ở tính hướng thiện

Không phải ngẫu nhiên khi Quảng Ninh chọn Yên Tử để xây dựng trung tâm kết nối du lịch tỉnh. Ngoài vẻ đẹp thiên phú, Yên Tử còn là vùng địa linh gắn với lịch sử oai hùng của dân tộc ta. Trong tâm niệm của nhân dân cả nước, Yên Tử là kinh đô Phật giáo của Việt Nam. Sau hai lần lãnh đạo quân dân đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm lược, đây là nơi được vua Trần Nhân Tông chọn để tu thiền, lập lên Thiền phái Trúc Lâm, dòng Thiền đầu tiên và duy nhất có sư tổ là Hoàng đế Việt Nam. Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử là đạo Phật của người Việt, phù hợp với thổ nhưỡng, trời đất, con người, văn hóa… của người Việt. Những giáo lý Phật giáo khác, chúng ta đã có nhưng xa, không hợp với căn cơ của người Việt. Trần Nhân Tông có lẽ đã mong muốn mang những giá trị đạo đức của Phật giáo làm yên lòng dân trong cảnh huống đất nước sau chiến tranh, sau chia ly, loạn lạc, chết chóc…

 

Trẩy hội Yên Tử 2016.


Vụ trưởng Vụ Phật giáo (Ban Tôn giáo Chính phủ) Bùi Hữu Dược cho rằng, có lẽ trên thế giới, duy nhất có Trần Nhân Tông là vị vua đã từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để đi tu. Và cũng không giống Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi người là hoàng tử của nước Ca Tỳ La Vệ, vì cảm nhận nỗi thống khổ của nhân gian mà từ bỏ tất cả để cứu rỗi chúng sinh, việc xuất gia của vua Trần Nhân Tông-người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử lại trong một cảnh huống khác. Đức Phật Thích Ca đi tìm đạo vì chưa có đạo, “Vua Phật” của Việt Nam đã thấm nhuần tư tưởng Phật giáo, Người có đạo mà vẫn xuất gia. Lý do xuất gia của Người chính là để mang giá trị của đạo Phật đến được với nhiều người dân Việt.

Cũng theo ông Bùi Hữu Dược, vua Trần Nhân Tông xuất gia vì muốn quyết tâm tạo dựng một đời sống tôn giáo mới từ nhận thức và ý thức của Người. Từ chuyện Trần Nhân Tông dạy con là Trần Anh Tông rằng, giết hổ thì khó nhưng khi giết được hổ rồi việc chia thịt hổ còn khó hơn nhiều. Khi giết hổ thì ai cũng chĩa mũi giáo vào con hổ và chỉ nghĩ đến chuyện giết được con hổ mà không suy tính gì khác. Còn khi chia thịt hổ mỗi người lại cố giành cho được miếng thịt của riêng mình. Làm vua thời bình giống như khi chia thịt hổ. Khi đó, người làm vua cần lấy đức trị dân. Đạo Phật đề cao những giá trị lương thiện, khoan dung, nhân bản... Vị vua anh minh Trần Nhân Tông tìm thấy những điểm tương đồng trong cai trị đất nước với tư tưởng Phật giáo và động lực dẫn tới xuất gia của người là mang lục hòa (6 phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất tới tinh thần, từ lời nói đến việc làm) vào đời sống người dân Việt lúc bấy giờ.

Sư cô Thích Đồng Hòa, Ban văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhìn nhận, qua bao cuộc biến đổi, thăng trầm của đất nước, Phật giáo Trúc lâm đã đứng vững, tồn tại và phát triển trong lòng dân tộc. Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử đã có những đóng góp đáng kể về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội; đóng góp vai trò quan trọng trong việc củng cố tinh thần đoàn kết, góp phần tạo nên những tinh hoa văn hóa dân tộc và mãi mãi là niềm tự hào của người Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh trong giai đoạn hiểm nghèo của đất nước, trước tai họa xâm lăng, nhiều vị thiền sư cùng đồng bào Phật tử đã chung lưng với dân tộc chống giặc, bảo vệ non sông...

Không chỉ mang những nét đặc trưng nổi bật của người Việt, những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử còn phù hợp với nét văn hóa nhân bản được thế giới đề cao. Chẳng thế mà, trên thế giới đã có Viện nghiên cứu Trần Nhân Tông và Giải thưởng Trần Nhân Tông về hòa giải-giành cho những người có đóng góp xuất sắc trong sự nghiệp hòa giải, yêu thương và hướng thiện trên thế giới. Tỉnh Quảng Ninh cũng đã phối hợp với các cơ quan chức năng của Trung ương đề nghị UNESCO vinh danh Đức vua-Phật hoàng Trần Nhân Tông là Danh nhân văn hóa thế giới; Quần thể di tích lịch sử văn hóa và danh thắng Yên Tử là Di sản văn hóa thế giới. Chúng ta hy vọng và tin tưởng những công nhận đó của UNESCO sớm thành hiện thực.

Bài và ảnh: MINH NHÃ