Vào mùa du lịch hè năm 2019, việc bảo đảm cơ sở lưu trú, phục vụ nhu cầu ăn nghỉ, giải trí của du khách là vấn đề được đặt ra. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc phỏng vấn Phó tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Hà Văn Siêu về định hướng phát triển hệ thống cơ sở lưu trú ở Việt Nam.
 |
|
Ông Hà Văn Siêu. |
Phóng viên (PV): Ông đánh giá thế nào về hạ tầng du lịch, nhất là cơ sở lưu trú của Việt Nam hiện nay?
Ông Hà Văn Siêu: Nhìn chung hạ tầng du lịch của Việt Nam đang được cải thiện tích cực, từ đường không, sân bay đến đường thủy, bến cảng, đường bộ, đường sắt… Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng du lịch là đầu tư lớn, không thể đòi hỏi có ngay trong một sớm, một chiều.
Riêng về cơ sở lưu trú, chúng ta cần nhìn nhận như thế này: Nhu cầu của du khách đối với cơ sở lưu trú nảy sinh, biến động rất nhanh trong ngắn hạn, trong khi chu kỳ đầu tư về hạ tầng đòi hỏi tầm nhìn dài hạn và thường có độ trễ. Nếu chúng ta có quy hoạch tốt thì khi thời gian đủ chín sẽ đáp ứng được nhu cầu. Tuy nhiên, nếu có sự tính toán không chính xác mà đầu tư ồ ạt sẽ gây ra tình trạng đáp ứng được trong ngắn hạn nhưng dài hạn lại thừa. Đơn cử, hiện nay một số nơi ở Việt Nam đang trong tình trạng tỷ lệ phòng trống cao vào mùa thấp điểm. Vậy làm thế nào với những phòng trống này? Buộc phải có những sản phẩm du lịch đủ hấp dẫn trong cả năm và nếu chúng ta hướng đến xây dựng một điểm đến mang tầm quốc tế, chúng ta cũng phải có những cơ sở lưu trú đủ cung ứng trong cả năm như vậy.
 |
|
Khu nghỉ dưỡng InterContinental Đà Nẵng. Ảnh: HOÀNG GIANG |
PV: Việc quản lý cơ sở lưu trú thời gian qua được thực hiện như thế nào, thưa ông?
Ông Hà Văn Siêu: Nếu chỉ tính về số lượng thì đến nay, các cơ sở lưu trú của Việt Nam từ một đến 5 sao, cả homestay cơ bản đáp ứng nhu cầu du khách. Tuy nhiên, cơ quan quản lý nhà nước vẫn phải tập trung kiểm soát chất lượng dịch vụ theo tiêu chuẩn, yêu cầu những cơ sở chưa đạt chuẩn thì phải hoàn thiện đạt chuẩn.
Nhìn chung, đối với những khách sạn cao cấp, thường xuyên soi chiếu tiêu chuẩn quốc tế nên chất lượng theo hạng sao được bảo đảm tương đối. Nhưng với khách sạn 3 sao trở xuống, chúng ta phải lưu tâm hơn. Vì theo thời gian và có nơi thì do mang tính mùa vụ cao, khách không đều nên xuống cấp rất nhanh. Do đó, công tác quản lý phải luôn có sự đôn đốc, kiểm tra chất lượng buộc các cơ sở phải không ngừng duy tu, bảo dưỡng. Bên cạnh những cơ sở lưu trú cũ, chúng tôi cũng khuyến khích đầu tư mới để tăng thêm sự đa dạng, đáp ứng nhu cầu và xu hướng du lịch cũng như dòng khách tăng lên của điểm đến. Hiện nay, cách tiếp cận là Nhà nước đưa ra dự báo, định hướng, còn các thành phần khác đón bắt cơ hội, đầu tư.
PV: Để ngành du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, chúng ta cần xây dựng nhiều điểm đến mang tầm quốc tế. Vậy theo ông, một điểm đến quốc tế phải đáp ứng điều kiện nào?
Ông Hà Văn Siêu: Hiện nay, chúng ta thường coi những nơi nào có mật độ khách quốc tế tương đối, đáp ứng được nhu cầu của khách quốc tế thì gọi là điểm đến quốc tế. Con số tương đối đó ít nhất phải là 30%, nếu cao hơn có thể đến 60-70%.
Tuy nhiên, theo tôi, một điểm đến quốc tế không những đáp ứng về số lượng khách mà phải có tư duy làm dịch vụ hướng tới những nhu cầu của khách quốc tế. Đây mới là điều cốt yếu. Do vậy, mọi hoạt động từ thiết kế, đầu tư tới công tác quản lý… đều hướng tới mục tiêu đó. Một điểm đến được gọi là mang tầm vóc quốc tế trước tiên phải tiếp cận điểm đến trực tiếp, nghĩa là phải có sân bay quốc tế. Tiếp đó, đa số các cơ sở dịch vụ phải đạt chuẩn quốc tế. Yếu tố kết nối, quản trị… cũng phải tham gia được vào chuỗi du lịch toàn cầu, nghĩa là phải có sự liên kết với quốc tế, tham gia vào các tuyến du lịch liên quốc gia, vào chuỗi dịch vụ chung, là điểm dừng chân của các tuyến hành trình liên lục địa. Bên cạnh đó, như nói ở trên tầm vóc của một điểm đến tầm cỡ quốc tế không chỉ đáp ứng dòng khách theo mùa vụ, mà phải bảo đảm sự hấp dẫn trong suốt cả năm, đáp ứng với những khách có nhu cầu khác nhau.
Hiện nay ở Việt Nam, điểm đến của chúng ta diễn tiến theo hai xu hướng. Thứ nhất là những điểm đến đã tiếp cận đến những tới hạn của khách về độ quen biết như Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc, Sa Pa… Những điểm đến này có cơ sở lưu trú tương đối nhiều, sản phẩm lại dễ dẫn đến nhàm chán nên cần có đầu tư làm mới sản phẩm. Những điểm đến cũ này cũng có thể hấp dẫn du khách bằng việc mở rộng, lan tỏa ra những vệ tinh xung quanh, những điểm đến thành phần để khách muốn trở lại, lưu trú thêm. Đối với những điểm đến mới, các địa phương cần lưu ý đầu tư bài bản ngay từ đầu, bảo đảm đúng tầm cỡ, tránh sự manh mún, kết hợp với việc khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cộng đồng dân cư phát triển sản phẩm du lịch bổ trợ.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
HUY AN (thực hiện)