Nếu nhìn từ bên ngoài, trường học là môi trường ổn định bậc nhất. Chương trình, sách giáo khoa cùng mọi quy trình, quy chuẩn giáo dục, trường lớp đều có sẵn và rõ ràng đến từng chi tiết. Đến thời gian làm việc, đồng lương cũng ổn định. Những điều kiện và yêu cầu ổn định đó như một khuôn mẫu định hình cả công việc, sinh hoạt, phong cách và phần nào đó cả tính cách người giáo viên và khiến họ dễ dàng bằng lòng, thụ động.
Nhưng trong thực tế, dù sự ổn định, khuôn mẫu đã làm bó chân bó tay nhiều người, song trong mỗi ngôi trường vẫn luôn không thiếu những thầy, cô giáo hăng say tự học, tự rèn luyện hoàn thiện bản thân và nâng cao trình độ để đổi mới, nâng cao chất lượng mỗi giờ lên lớp. Ở Hà Nội, một trong những nhà giáo được ngành giáo dục tuyên dương trong năm 2017 là cô giáo tuổi đã cao nhưng tự học tin học và áp dụng vào dạy học bằng những biểu bảng, hình ảnh làm cho các tiết học trở nên sinh động, cuốn hút học sinh. Ở TP Hồ Chí Minh có cô giáo mạnh dạn cho các nhóm học sinh tự chuẩn bị tư liệu, hình ảnh và thuyết trình trước lớp về từng chủ đề trong môn Văn. Kết quả là không khí lớp học luôn luôn hứng thú, vui vẻ, không gò bó và quan trọng hơn, học sinh đều trở nên tự tin, hoạt bát, sẵn sàng trao đổi, phát biểu, thuyết trình, phản biện và biết cách làm việc nhóm.
Những câu chuyện về sáng kiến đổi mới phương pháp dạy học như trên còn có ở nhiều nơi trong hệ thống giáo dục cả nước ta. Và như thế, nghề giáo ổn định nhưng luôn có động lực để thầy cô thay đổi. Động lực đó xuất phát từ tình yêu và trách nhiệm “tất cả vì học sinh thân yêu” và cũng từ nhu cầu tự nâng cao, hoàn thiện và thể hiện mình.
Thời gian gần đây, những thông tin về nền giáo dục đặc sắc của Phần Lan đã lan truyền rộng rãi khiến chúng ta vừa khâm phục, vừa ấp ủ mong muốn đổi thay mạnh mẽ hơn nữa nền giáo dục nước nhà. Một trong những điểm then chốt trong phương pháp tổ chức trong giáo dục của Phần Lan là giáo viên tự soạn giáo án, tự chủ động trong vận dụng, sáng tạo trong phương pháp giảng dạy. Điều kiện cơ sở vật chất của các nhà trường cùng bằng cấp thạc sĩ của các giáo viên là quá cao xa đối với hoàn cảnh Việt Nam nhưng đề cao, phát huy tính chủ động, sáng tạo của giáo viên là thứ ta đã có và hoàn toàn có thể làm tốt hơn nữa.
Chúng ta đã có một nền tảng xã hội rất thuận lợi, đã có nhiều hình thức khuyến khích, động viên nhà giáo tích cực cải tiến, nâng cao chất lượng giảng dạy. Nhưng khó ai có thể cho rằng như thế là đã đủ. Tâm lý tròn vai tròn việc, tự bằng lòng vẫn còn phổ biến trong đội ngũ giáo viên. Thậm chí vẫn còn hiện tượng gò ép giáo viên theo những định hình cũ kỹ. Không khí đổi thay, tìm tòi chưa đủ lay động, gây phấn khích trong nhiều trường học và rất nhiều giáo viên.
Phải chăng trong các bước đi và công việc lớn của quá trình đổi mới cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, vấn đề phát huy tính chủ động của giáo viên nên được bàn thảo mở hướng để các nhà giáo thực sự là tác nhân đi đầu?
NGUYỄN ANH