Phần lễ tái hiện cảnh vua cày ruộng khuyến khích nông nghiệp. Phần hội có hội hát, hội vật, hội vẽ trâu, hội đánh cờ… Nhân dân ở quanh vùng có thêm nhiều tiết mục góp vui cho hội, như người làng Đọi Tam góp màn trống hội, người làng Đọi Nhì có tiết mục vẽ trâu, người từ huyện Thanh Liêm, Ý Yên về vui hội vật, hội cờ… Du khách phương xa góp phần bằng cách kể lại tích Tịch điền cho người chưa biết. Từ người dân cho đến du khách ai nấy đều như là chủ lễ hội cả.
Lễ hội Tịch điền của tỉnh Hà Nam. Ảnh: giadinh.net
Trong khi đó một số lễ hội cổ truyền lại “đánh bật” du khách ra để trở thành đối tượng kinh doanh. Có thể lấy ví dụ như Lễ hội đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh. Ban đầu, đây chỉ là một hoạt động văn hóa tâm linh, tôn vinh, tưởng nhớ người có công của người dân làng Cô Mễ. Sau dần, lễ đền đã bị một số người dân địa phương lợi dụng tuyên truyền sai lạc khiến du khách tin vào những điều huyễn hoặc rồi biến tướng thành hoạt động mê tín dị đoan. Người đến lễ mà không biết Bà Chúa Kho tên gì, sinh ra trong thời gian nào, có công gì đối với đất nước? Mà chỉ biết câu khẩu hiệu: Đầu năm vay, cuối năm trả. Không vay thì chỉ cần nhặt lộc rơi lộc vãi (!)
Ngoài ra, hoạt động tuyên truyền mê tín dị đoan của một số đối tượng cũng khiến nhiều lễ hội bị biến chất, mất mục đích ý nghĩa ban đầu. Ví dụ như Lễ hội Chọi trâu Hải Lựu ở tỉnh Vĩnh Phúc. Không hiểu từ bao giờ và do ai đưa ra cái suy nghĩ rằng: Ăn thịt trâu chọi sẽ được “đỏ”, làm việc mới hanh thông, thuận lợi. Vậy là thịt trâu chọi được bán với giá cao ngất ngưởng. Suất nuôi trâu chọi tham gia lễ hội cũng phải được “đấu giá”. Không nhiều người đến hội chọi trâu này mà biết tới công lao của nghĩa quân Lữ Gia thời Hai Bà Trưng. Chưa hết, nhiều địa phương thấy tổ chức chọi trâu “ngon ăn” cũng tổ chức lễ hội, dù không có một vị thánh thần, danh tướng nào liên quan đến việc chọi trâu cả. Rõ ràng đó là những lễ hội “lừa” du khách, mê hoặc mọi người.
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng, được sáng tạo và hưởng thụ bởi người dân. Lễ hội cổ truyền phần lớn đều có xuất phát điểm từ việc tri ân tiền nhân có công với cộng đồng, đất nước. Điều đó thể hiện trong văn tế, trong bia công lao tưởng nhớ công đức. Tất cả những nghi lễ diễn ra trong lễ hội đều được phủ bóng bằng màu sắc linh thiêng. Linh thiêng mà không sinh ra mê tín dị đoan. Điều đó thể hiện ở những lời cầu nguyện bằng văn bản (dân gian gọi là sớ), với niềm tin rằng các vị thần thánh đó sẽ phù hộ cho cộng đồng, cho đất nước. Không bao giờ có vị thần, vị thánh nào lại phù hộ cho một cá nhân đơn lẻ, bởi điều đó nếu có thực sẽ là bất khả thi.
Như vậy, trong vai trò là người hưởng thụ lễ hội nhân dân nói chung hay du khách nói riêng cũng cần hiểu rõ và đặt đúng vị trí của mình. Hiểu rõ về lễ hội, hiểu rõ người dân ở đó tri ân bậc tiên hiền, thánh thần nào; người đó đã góp công gì cho đất nước và cuối cùng là mình học được gì ở họ. Thêm nữa, các cơ quan chức năng cũng cần tuyên truyền, làm rõ, hoặc giải thiêng nếu cần đối với những nghi lễ; làm bia nêu rõ công trạng của người được thờ để nhân dân hiểu rõ và làm chủ lễ hội.
LÊ ĐÔNG HÀ