QĐND Online – Mặc dù xuất khẩu của Việt Nam đang đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng các nghiên cứu sâu đã cho thấy có nhiều vấn đề đang phát sinh trong quá trình xuất khẩu. Nhiều khó khăn đang ngày một rõ ràng và trở thành những chướng ngại kìm hãm xuất khẩu của Việt Nam…

Thực trạng xuất khẩu Việt Nam

Theo Báo cáo xúc tiến xuất nhập khẩu 2010-2011 của Cục xúc tiến Thương mại (Bộ Công thương), tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2011 ước đạt 96,3 tỷ USD, tăng 33,3% so với năm 2010, vượt chỉ tiêu đề ra (tăng 10%). Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước chiếm tỷ trọng 50,3%, đạt 48,4 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng vượt trội, tăng 45,9% so với năm 2010.

So với năm 2010, có thêm 2 mặt hàng là túi xách, va li, mũ, ô dù và sản phẩm từ sắt thép có kim ngạch trên 1 tỷ USD, đưa các mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD lên con số 23 mặt hàng. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 49,7% đạt khoảng 47,9 tỷ USD, tăng 22,5%.

Năm 2011, tuy kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng hoạt động xuất khẩu vẫn đạt kết quả cao, vượt trội cả về quy mô xuất khẩu và tốc độ tăng so với năm trước. Tốc độ tăng xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng của nhập khẩu, nhập siêu đã giảm cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu. Tỷ lệ xuất khẩu/GDP vượt qua mức 80% (năm 2010 là 70%).

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2011 ước đạt 96,3 tỷ USD. Ảnh: Internet

Nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2010 ở mức cao, đạt 19%/năm. Quy mô xuất khẩu tăng từ 15 tỷ USD năm 2001 lên 72,19 tỷ năm 2010, tăng hơn 4,7 lần. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trên GDP tăng từ 46% năm 2001 lên 70% năm 2010. Sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 220 nước và vùng lãnh thổ. Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước đã vươn lên chiếm tỷ trọng 50,3% (năm 2010 là 45,8%) với tốc độ tăng trưởng vượt trội, tăng 45,9% so với năm 2010.

Trong 10 năm qua, xuất khẩu đã đóng góp tỷ trọng lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế. Các điều kiện nghiêm ngặt của thị trường nhập khẩu đã khuyến khích áp dụng các quy định về môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm, phương pháp sản xuất thân thiện môi trường. Bên cạnh đó, phát triển xuất khẩu góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ lao động, xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với khu vực nông thôn.

Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ ra, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong tương lai từ các ngành xuất khẩu sử dụng nhiều lao động sang các ngành mang hàm lượng tri thức và công nghệ cao đang là một bài toán cần có lời giải cụ thể. Những ngành xuất khẩu hiện tại càng bền vững thì khả năng chuyển đổi càng khó khăn. Chuyển đổi mà không tính đến việc sử dụng tối đa lao động và dịch chuyển lao động sang các ngành mới thì có thể xuất hiện tình trạng thất nghiệp, kéo theo những hệ lụy về an ninh và bất ổn xã hội.

Khó khăn của xuất khẩu Việt Nam

Giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu thấp do chủ yếu dựa vào khai thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ. Chính sách phát triển xuất khẩu trong thời gian qua quá chú trọng đến chỉ tiêu về số lượng, chưa thật sự quan tâm đến chất lượng và hiệu quả xuất khẩu. Việt Nam chưa khai thác một cách hiệu quả lợi thế cạnh tranh xuất khẩu dựa vào công nghệ, trình độ lao động, quản lý… để tạo ra các nhóm hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao, có khả năng tham gia vào khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Bên cạnh đó, mở rộng xuất khẩu đang có nguy cơ làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học và ô nhiễm môi trường. Tăng trưởng xuất khẩu, ở chừng mực nào đó, chủ yếu dựa vào việc khuyến khích khai thác tài nguyên thiên nhiên và sử dụng ngày càng nhiều các yếu tố đầu vào gây ô nhiễm.

Theo kết quả điều tra, các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam đến từ 4 nhóm nhân tố chính, thứ nhất là thiếu vốn (24,36% rất khó khăn và 24,49% khá khó khăn), thiếu nguyên liệu đầu vào (16,9% rất khó khăn và 26,76% khá khó khăn), yêu cầu thị trường phức tạp (21,95% rất khó khăn và 37,8% khá khó khăn) và giá thành các chi phí vận chuyển phân phối và lưu trữ tại Việt Nam cao. Đặc biệt là các chi phí vận động và "bôi trơn" trong việc thực hiện các thủ tục hành chính được tính vào chi phí. Doanh nghiệp có thể tiết giảm chi phí đầu vào, tối thiếu lương và quản trị nhân sự hiệu quả nhưng lại không thể và không có cách nào để giảm các chi phí giao dịch xã hội, mà các chi phí này cấu thành một phần không nhỏ trong giá thành để có thể cạnh tranh.

Do các mặt hàng của Việt Nam không đòi hỏi công nghệ cao nên sử dụng công nghệ đại trà và cơ cấu nhập khẩu cho thấy đây là các công nghệ ít tiên tiến (so sánh tương đối với Hoa Kỳ và Châu Âu) vì ta chủ yếu nhập công nghệ từ Trung Quốc và ASEAN). Tương tự, các ngành nông nghiệp và gia công xuất khẩu tại Việt Nam chưa đến mức đòi hỏi nguồn nhân lực có tri thức cao nhưng lại cần có kỹ năng thực hành giỏi. Trong khi lao động phổ thông chuyển đổi giữa các ngành dệt may, giày dép sang điện tử đã làm mất đi rất nhiều công sức trong việc đào tạo tay nghề công nhân.

Xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới không có nhóm hàng nào chiếm quá 10% thị phần toàn cầu, điều này có nghĩa là chúng ta không có quyền quyết định mức giá trên thị trường toàn cầu. Ngay cả một số mặt hàng nông sản mà Việt Nam trong Top dẫn đầu trên thị trường thế giới như: gạo, cà phê, hạt điều... thì Việt Nam vẫn không đủ năng lực quyết định mức giá bán trên thị trường toàn cầu.

Phương pháp giảm giá liên tục (low-cost, phí hạ) là một trong hai chiến lược cơ bản thành công thì không có doanh nghiệp nào áp dụng được do việc không ngừng tăng năng suất để giảm chi phí hoặc giảm chi phí các đầu vào cũng như cách thức tổ chức triển khai sản xuất tiết kiệm tại Việt Nam đã gặp giới hạn. Hạn chế do không thể tăng năng suất nhằm giảm thiểu chi phí cũng như cải tiến để có được giá trị gia tăng cao hơn trong sản xuất của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam chính là rào cản lớn cho đổi mới và tăng trưởng trong tương lai.

Trong khi đó, từ khi Chính phủ xóa bỏ chính sách thưởng xuất khẩu, ngoại trừ xuất khẩu theo hiệp định, đến nay tại Việt Nam chỉ còn duy nhất chương trình XTTM là hoạt động gián tiếp nhằm hỗ trợ và tăng cường năng lực xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, với quy mô của doanh nghiệp trên toàn quốc mà tổng chi phí cho ngân sách XTTM là quá hạn chế thì sẽ không thể khuyến khích tăng trưởng xuất khẩu trong dài hạn.

Theo các chuyên gia, muốn phát triển xuất khẩu trong dài hạn, Việt Nam cần chiến lược tái cấu trúc cơ cấu ngành sản xuất, thực hiện chiến lược nhập khẩu đúng đắn. Mô hình tăng trưởng hướng vào xuất khẩu của Việt Nam cần tăng hàm lượng công nghệ của khu vực xuất khẩu, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, phát triển ngành công nghiệp phụ trợ gắn kết chặt chẽ với mạng lưới sản xuất và chuyển giao công nghệ toàn cầu. Đảm bảo các mặt hàng xuất khẩu có thị trường trong nước ổn định, giữ vững vị thế tiêu thụ trên sân nhà song hành với việc phát triển thị trường xuất khẩu.

Xuân Dũng