 |
Lễ cắm cột mốc 1116 tại Cửa khẩu Hữu Nghị-Lạng Sơn. |
Biên giới lãnh thổ, cho dù là biên giới trên biển, trên không hay trên bộ, từ ngàn đời nay luôn là vấn đề thiêng liêng nhất, nhạy cảm nhất của từng dân tộc, từng quốc gia. Thế giới, khu vực hoặc trong một quốc gia có hòa bình, ổn định hay không, một phần lớn phụ thuộc vào tình hình của các đường biên giới.
Trong những ngày đầu năm 2009, Việt Nam và Trung Quốc cùng đón nhận tin vui khi hai nước chính thức ra Tuyên bố chungvề hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc (PGCM) trên toàn tuyếnbiên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Để có niềm vui ấy, chúng ta không thể không nhắc tới sự quan tâm sát sao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ hai nước, sự nhiệt tình quên mình của các cơ quan, ban, ngành thực thi nhiệm vụ, sự đóng góp lớn lao của nhân dân hai nước để có được đường biên giới hòa bình hữu nghị. Tuy nhiên, từ khâu đàm phán, ký kết hiệp ước cho tới thực thi để đưa các điều khoản trong hiệp ước ra thực địa, hoàn thành cắm mốc, phân định rõ ràng đường biên giới là công việc tỉ mỉ, khó khăn, phức tạp, mất nhiều thời gian.
Nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn toàn cảnh công tác PGCM trên toàn tuyếnbiên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có buổi trao đổi với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Dũng, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc.
PV: Xin đồng chí Thứ trưởng khái quát bức tranh toàn cảnh về tình hình biên giới trên bộ nói chung và trong những năm qua chúng ta đã giải quyết vấn đề này tới đâu?
Thứ trưởng Vũ Dũng: Biên giới lãnh thổ là lĩnh vực vô cùng thiêng thiêng của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Theo các số liệu được thống kê, có tới một nửa số cuộc chiến tranh xảy ra trong những thập niên vừa qua là vì vấn đề biên giới lãnh thổ, tài nguyên hay tôn giáo. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất sớm về vấn đề này. Có thể khẳng định, đây là một thành công lớn của Đảng và Nhà nước ta trong mấy chục năm qua. Chúng ta đã lần lượt, từng bước giải quyết ổn thỏa mọi vấn đề biên giới lãnh thổ còn tồn tại giữa nước ta với các nước liên quan.
Tính đến ngày 31-12-2008, chúng ta đã giải quyết cơ bản xong vấn đề biên giới trên bộ. Với Lào, chúng ta có Hiệp định biên giới năm 1977. Với Trung Quốc, chúng ta đã hoàn thành công tác PGCM, cụ thể đã cắm xong toàn bộ hệ thống cột mốc trên toàn tuyến biên giới trên bộ Việt Nam - Trung Quốc. Với Cam-pu-chia, chúng ta đã ký Hiệp ước năm 1985, gần đây có ký Hiệp ước bổ sung năm 2005 và hiện nay đang tiến hành cắm mốc. Hai bên đang phấn đấu tới năm 2012 sẽ cắm mốc xong.
Như vậy, về mặt pháp lý chúng ta đã giải quyết xong vấn đề biên giới trên bộ với các nước láng giềng. Tổng thể tới năm 2012, Việt Nam trở thành một trong số ít các quốc gia vừa có đường biên giới pháp lý, trên hiệp ước, trên bản đồ, lại vừa thực hiện cắm xong mốc với tất cả các nước láng giềng.
- Dựa vào đâu để tiến hành công tác PGCM trên biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc?
- Nước ta diện tích tuy nhỏ nhưng lại có đường biên giới trên bộ và trên biển rất dài. Riêng biên giới trên bộ với Trung Quốc là hơn 1.400km, với Lào là hơn 2.000km, với Cam-pu-chia là 1.137km. Tổng cộng chiều dài của đường biên giới trên bộ là hơn 4.500km cùng với khoảng 5.000km đường biên giới trên biển (tính theo luật biển quốc tế), Việt Nam có khoảng 10.000km đường biên giới trên bộ và trên biển. So với diện tích của một quốc gia, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ đường biên giới lớn trên thế giới.
Đường biên giới Việt-Trung đã hình thành từ lâu, chịu sự tác động cả về cơ học, cả về tinh thần rất sâu sắc, vì vậy trở thành vấn đề vô cùng nhạy cảm với cả hai bên. Trong một số tác phẩm trước đây của ông cha ta để lại cũng đã ghi chép về vấn đề này. Đến năm 1887 - 1895, thực dân Pháp lúc đó với tư cách của chính quyền bảo hộ và nhà Thanh (Trung Quốc) đã ký hai công ước 1887 và 1895. Đây là hai công ước rất quan trọng, lần đầu tiên ghi lại được thành văn bản pháp lý về đường biên giới. Năm 1999, hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã chính thức ký kết Hiệp định biên giới trên bộ, làm cơ sở để tiến hành công tác PGCM.
Do yếu tố lịch sử, việc thực thi công tác PGCM gặp vô vàn khó khăn ngay từ bước đầu tiên. Hai công ước thời Pháp có nhược điểm là mô tả rất sơ sài, trên một bản đồ có tỷ lệ rất nhỏ, đồng thời số cột mốc trên thực địa lại rất thưa. Trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung chỉ có 431 cột mốc được cắm, thậm chí có những vị trí tại Lai Châu, các cột mốc cách nhau tới 40km. Trong khi đó, điều kiện tự nhiên tại khu vực là rừng rậm và núi cao, một hệ thống cột mốc như vậy rất khó nhận biết. Đồng thời, trải qua nhiều thế kỷ và sự biến động của tự nhiên với điều kiện vô cùng khắc nghiệt, nhiều cột mốc đã bị mất.
 |
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Dũng trả lời phỏng vấn của phóng viên Báo Quân đội nhân dân. |
Một đặc điểm quan trọng khác là đường biên giới Việt - Trung đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử. Đây là đặc điểm vô cùng quan trọng, mang tính nhạy cảm cao. Tuy nhiên, mọi hiểu lầm rồi cũng qua đi, trách nhiệm của thế hệ sau là xây dựng một đường biên giới chính xác với những gì của chúng ta. Bởi mỗi dòng suối, từng thửa ruộng đã trở thành máu thịt, linh thiêng với từng người dân Việt Nam, nhất là với những người sống tại các khu vực biên giới.
- Có thể nói đường biên giới Việt - Trung là đường biên giới đầy ắp các sự kiện lịch sử, sự kiện nào cũng sống động, đáng ghi nhớ. Theo Thứ trưởng, thành công của PGCM nói lên điều gì?
- Có thể khẳng định đây là thắng lợi chung của Việt Nam và Trung Quốc. Cả hai nước đều muốn biến đường biên giới chung trở thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị hợp tác cùng phát triển. Khi nước bạn phát triển chắc chắn sẽ là cơ hội lớn để chúng ta giao thương và phát triển. Bằng chứng là trong mấy năm qua, kim ngạch qua lại giữa hai nước đã tăng lên rất đáng kể, tạo ra nhiều thay đổi tích cực cho các vùng biên giới. Điều này trở thành hành động cụ thể nhất cho quan hệ hợp tác đối tác chiến lược Việt Nam-Trung Quốc.
Một trong những tinh thần của quan hệ hợp tác đối tác chiến lược là xây dựng mối quan hệ tin cậy giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước. Chừng nào vấn đề biên giới chưa giải quyết xong thì vẫn còn những khúc mắc. Chính vì vậy, đường biên giới khơi thông cũng như dòng chảy của niềm tin được khơi thông. Có thể nói, đây là chất xúc tác vô cùng quan trọng để xây dựng niềm tin giữa hai bên.
- Trên cương vị là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán về biên giới lãnh thổ, xin đồng chí cho biết, chúng ta đã trải qua bao nhiêu vòng đàm phán? Vấn đề nào là khó khăn nhất, khó thỏa thuận nhất giữa ta và bạn?
- Từ khi tiến hành đàm phán PGCM tới nay đã qua tổng cộng 32 vòng đàm phán cấp chủ tịch ủy ban liên hiệp về PGCM. Riêng cấp trưởng đoàn đã có 14 vòng. Mỗi vòng đều diễn ra vô cùng gian nan, vòng ngắn nhất là 9 ngày, vòng dài nhất là 23 ngày. Phiên họp dài nhất là 31 tiếng đồng hồ liên tục không nghỉ, các đại biểu đã phải ăn tới 3 bữa cơm hộp tại bàn đàm phán. Công việc tưởng đơn giản là đưa lời văn từ Hiệp ước vào thực địa, thành đường biên giới trên bản đồ, nhưng quá trình này lại là bước khó khăn nhất, dễ nảy sinh bất đồng nhất trong quá trình đàm phán.
Các khu vực PGCM đều có địa hình hiểm trở với độ cao từ 1.000m đến 2.000m hoặc cao hơn, rất khó xác định vị trí thực trên địa hình. Ví dụ, lời văn trong Hiệp ước mô tả đường biên giới xuất phát từ một điểm cao nào đó, đi xuống dưới chân núi, rồi đi qua các khe sang một ngọn núi khác. Nghe cũng dễ hiểu nhưng khi ra thực địa rất phức tạp.
- Có phải quyền lợi là điểm khó nhất khi giải quyết các vấn đề trên thực địa?- Đúng. Điểm khó nhất trong vấn đề đàm phán là do ta và bạn không thống nhất được trên thực địa. Có những tháng, có những nhóm PGCM không làm được việc gì. Đồng thời, do tại thực địa không giống như mô tả trong các hiệp ước, vì vậy rất khó xác định vị trí chuẩn để đo đạc. Ví dụ như lời văn hiệp ước mô tả tại cửa khẩu Trà Lĩnh Cao Bằng, đường biên giới nằm ở phía nam con đường tuần tra, không nói rõ bao nhiêu mét, 5 mét cũng là phía nam, một km cũng là phía nam. Làm thế nào để xác định cho chuẩn, đó là cuộc đấu tranh gay go của đoàn đàm phán. Chỉ chênh nhau một vài mét thôi cũng kéo dài thời gian đàm phán hằng tháng.
- Nghe nói hai bên đã phải thay đổi phương pháp trong quá trình PGCM? Vì sao lại phải làm như vậy?
- Tháng 12-2001, Việt Nam bắt đầu cắm cột mốc đầu tiên tại cửa khẩu Móng Cái, nhưng phải đến tháng 10-2002 mới bắt đầu thực hiện trên toàn tuyến. Ban đầu định làm theo cách "cuốn chiếu", từ Điện Biên cuốn sang các tỉnh về phía Quảng Ninh, mục đích làm gọn để tránh tình trạng tranh chấp kéo dài. Tuy nhiên, làm theo cách đó chúng ta chỉ cắm được 89 cột mốc trong 2 năm 2002 và 2003. Do tiến độ quá chậm, đoàn đàm phán phía ta đã bàn với bạn làm theo cách "dễ trước khó sau" trong các năm 2004, 2005 và 2006. Có thể nói đây là biện pháp khá tích cực để đẩy nhanh tiến độ PGCM. Cuối năm 2006 chúng ta đã cắm được hơn 70% khối lượng. Nhưng cũng chính vì cách làm này, bao nhiêu chỗ khó đọng lại khiến năm 2007 tiến trình bị đọng lại.
- Vừa rồi chúng ta đã ký xong tuyên bố chung về biên giới lãnh thổ với Trung Quốc, vậy Nghị định thư về biên giới lãnh thổ bao giờ sẽ hoàn thành? Việt Nam và Trung Quốc sẽ có Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới thế nào?
- Nghị định thư là biên bản ghi chép chính thức của hai nước về đường biên giới. Trong quá trình PGCM, hai bên đã thống nhất về mẫu của nghị định thư. Khi PGCM, các nhóm PGCM của hai bên ghi lại theo hướng dẫn của mẫu này. Công việc tới đây của ủy ban là ghép lại toàn bộ tài liệu ghi chép của từng cột mốc thành Nghị định thư. Lúc này, các mô tả phải trở thành mẫu chính xác tuyệt đối, cả hệ thống cột mốc trên toàn tuyến biên giới đều được quy chuẩn theo hệ tọa độ thống nhất. Mỗi cột đều đo theo hệ thống GPS (Hệ thống định vị bằng vệ tinh), trung bình phải đo 10 lần theo các múi giờ và điều kiện thời tiết khác nhau, từ đó đưa ra một sai số nhỏ nhất. Đây là quá trình vô cùng cẩn thận, tỉ mỉ và chính xác.
 |
Đoàn công tác phân giới cắm mốc hành quân lên thực địa. |
Hiệp định quản lý biên giới giữa hai nước là văn bản khung, bao quát nhất. Hiệp định quản lý biên giới năm 2009 sẽ thay quy chế quản lý biên giới từ năm 1991 cho phù hợp với tình hình. Vừa qua, Trung Quốc đã chuẩn bị dự thảo lần thứ nhất, đã trao cho ta và ta đã có phản hồi lần thứ nhất. Quy chế quản lý biên giới lần này sẽ bao gồm tất cả những vấn đề có liên quan tới biên giới, từ việc cụ thể nhất như đi lại, kiểm dịch, xây dựng công trình, chế độ tuần tra chung, tuần tra riêng, xử lý các vấn đề đụng độ, vấn đề sử dụng nguồn nước, vấn đề môi trường, các vấn đề về thiên tai, cháy nổ... Quy chế này sẽ có tác dụng điều tiết liên quan tới các hoạt động trên biên giới. Hai bên cố gắng xây dựng bộ quy chế này càng bao trùm, càng chi tiết càng có lợi cho công tác quản lý sau này, tránh tranh chấp và trách nhiệm. Theo kế hoạch trong năm 2009, hai nước sẽ hoàn thành xong cả nghị định thư và bộ quy chế quản lý đường biên giới.
- Năm 2009 được xác định là năm ngoại giao văn hóa. Vậy chúng ta cần phải làm gì cho phù hợp với tình hình cụ thể tại các khu vực biên giới?
- Hầu hết bà con các dân tộc thiểu số của ta đang sinh sống dọc hơn 1.400km đường biên giới Việt – Trung. Chính đồng bào tại các khu vực này là đối tượng tiếp xúc trực tiếp với người dân phía bên kia biên giới. Đây cũng là những nơi rất khó khăn, vì vậy sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, chúng ta cần tạo nhiều cơ hội để người dân có điều kiện nâng cao mức sống. Đảng và Nhà nước cũng hết sức quan tâm và tạo điều kiện cho các tỉnh biên giới mở ra các cơ hội hợp tác với các tỉnh bạn trong hợp tác kinh tế và giao lưu văn hóa.
Do đời sống văn hóa các dân tộc rất gần gũi nhau, cho nên ngoại giao văn hóa trong năm 2009 là công cụ rất tốt để gắn kết lại, bồi đắp thêm tình cảm của các dân tộc hai bên. Dùng ngoại giao văn hóa để tăng cường thúc đẩy quan hệ giữa các địa phương và cư dân khu vực biên giới. Trong lễ mừng công tới đây, Bộ Ngoại giao sẽ phối hợp với các ban ngành hữu quan để làm vấn đề này thật tốt. Thông qua sợi dây văn hóa truyền thống để tăng cường hơn nữa tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
- Đường biên giới của Việt Nam với các nước là vấn đề đặc biệt thiêng liêng, chính vì vậy, những gì dành cho biên giới cũng phải đặc biệt. Xin thứ trưởng cho biết những điều đặc biệt về tuyến biên giới Việt - Trung?
- Vì đây là tuyến biên giới đặc biệt, nên có rất nhiều điều đặc biệt. Trước tiên, đây là hạng mục đặc biệt của lòng dân, ý Đảng. Chính phủ đã dành ưu tiên tối đa cho công việc PGCM. Cột mốc của chúng ta được sản xuất từ đá Gran-nít liền khối tại vùng đá quý nổi tiếng Bình Định. Các nghệ nhân đá tại Bình Định khẳng định đó là những khối đá tốt nhất, đẹp nhất, không bị nứt, không bị biến dạng về màu. Công việc chọn đá cũng lắm kỳ công bởi khí hậu trên các vùng biên giới rất khắc nghiệt. Mùa hè có nơi tới 400 C, còn mùa đông có thể xuống âm độ, nếu không chọn đá tốt sẽ dễ bị nứt hoặc biến dạng. Cột mốc được chia làm ba dạng, mốc lớn, mốc vừa và mốc nhỏ. Những khối bê-tông được gắn vào cột mốc cũng là những loại bê-tông đặc biệt, được Bộ Xây dựng sản xuất riêng. Những loại bê tông này có thể chịu được sức công phá lớn, đồng thời rất khó có thể di dời. Hệ thống cốt thép cũng được thiết kế đặc biệt để tiện cho quá trình vận chuyển và lắp ghép.
Về phía con người và trang bị thực thi nhiệm vụ PGCM, các đồng chí trong các tổ PGCM cũng có những ưu đãi đặc biệt, cho dù cũng chẳng thấm gì so với những khó khăn, gian khổ và căng thẳng mà anh em đã trải qua. Trong điều kiện đất nước còn rất nhiều khó khăn, Đảng và Chính phủ vẫn dành mọi ưu tiên cao nhất về con người và trang bị. Trung Quốc có thiết bị gì, ta có thiết bị đó. Trong quá trình triển khai công việc đo đạc, nếu bạn có một máy hiện đại, ta cũng phải có để có thể tương thích, không bị sai lệch.
Nếu trong điều kiện chiến tranh đó là công việc hết sức bình thường, nhưng trong thời bình việc phải nấu cơm ăn và ngủ giữa rừng nhiều ngày mà anh em vẫn bảo đảm sức khỏe và tỉnh táo để làm việc cũng là cả một sự cố gắng rất cao. Tất cả các nhóm khi đi công tác tại các khu vực hẻo lánh cũng đều sống như những người lính ra trận.
- Trong thời gian qua đã có việc hoặc do không hiểu, hoặc do cố tình xuyên tạc các sự kiện, số liệu để thông tin sai lệch trên các phương tiện làm nhiều người không rõ thực hư chuyện PGCM giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có người cho rằng, chúng ta nhượng bộ quá nhiều khiến dân ta mất đất. Xin Thứ trưởng giải thích rõ để nhân dân hiểu về vấn đề này?
- Tôi khẳng định rằng, vấn đề chủ quyền lãnh thổ từ ngàn năm nay luôn thiêng liêng cao cả, bởi cả dân tộc chúng ta đã phải hy sinh biết bao xương máu mới có ngày hôm nay. Trong lịch sử hàng nghìn năm, vấn đề biên giới lãnh thổ luôn được cha ông ta quan tâm chăm lo, bảo vệ. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, đã đi qua những cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, chịu đựng nhiều mất mát, hy sinh to lớn để giữ vững chủ quyền lãnh thổ của mảnh đất thân yêu này. Trong đàm phán với Trung Quốc và các nước láng giềng khác cũng như trong quá trình PGCM trên thực địa, chúng ta đều đã thể hiện hết sức rõ ràng lập trường bất di bất dịch rằng: Chủ quyền lãnh thổ là vấn đề mang tính nguyên tắc, không thể nhân nhượng. Những gì là vấn đề do lịch sử để lại, hai đoàn đàm phán đã nhất trí linh hoạt điều chỉnh trên cơ sở cân bằng lợi ích. Vì vậy, không thể có chuyện “Việt Nam mất đất” hay “cắt đất” cho nước này, nước kia như một số mạng nước ngoài đưa tin. Chỉ có thể giải thích rằng những mạng này, hoặc do thiếu thông tin, hoặc cố tình làm sai lệch thông tin vì những ý đồ khác nhau.
Vừa qua đọc một số bài đăng trên các trang mạng hoặc các nguồn tài liệu khác nhau, tôi thấy có nhiều bài viết có nội dung phong phú, rất tốt cho những người làm công tác PGCM tham khảo, nhiều bài viết có tính xây dựng cao. Số người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc chỉ là số ít. Với những người cố ý xuyên tạc, thì dù chúng ta có làm tốt thế nào họ cũng vẫn cứ xuyên tạc.
- Trong quá trình PGCM, đâu là những khu vực nhạy cảm nhất?
- Đó là các khu vực thác Bản Giốc và Hữu Nghị Quan.
Thác Bản Giốc gồm 2 phần: Phần thác phụ và phần thác chính. Phần thác phụ hoàn toàn thuộc phía Việt Nam, còn phần thác chính đổ thẳng xuống sông Quây Sơn là sông chung biên giới. Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới được xác định theo nguyên tắc trung tuyến dòng chảy chính. Tại vòng họp cuối cùng, ta và Trung Quốc đã thỏa thuận đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa của mặt thác chính và sau đó dòng chảy chính trên sông Quây Sơn. Như vậy, theo các thỏa thuận giữa ta với Trung Quốc, Việt Nam được hơn hai phần ba trong tổng số phân chia khu vực thác Bản Giốc. Hai bên thỏa thuận không xây dựng các công trình nhân tạo tại khu vực thác Bản Giốc để bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái ở khu vực này, đồng thời nhất trí xem xét hợp tác khai thác tiềm năng du lịch và sẽ ký Thỏa thuận cấp Chính phủ về vấn đề này. Tại khu vực thác Bản Giốc chúng ta có thể khai thác được lợi thế du lịch bởi phần đất của Việt Nam có nhiều vị trí đẹp.
Về khu vực Hữu Nghị Quan: Một số người không hiểu vẫn cho rằng đó là của Việt Nam và rằng chúng ta nhượng bộ cho Trung Quốc. Tuy nhiên, các tài liệu của "Đại Nam nhất thống chí" trang 366 có viết: Ải Nam Quan cách tỉnh thành 31 dặm về phía Bắc, địa phận hai xã Đồng Đăng và Bảo Lông đều thuộc châu Văn Uyên. Cửa này dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 nhà Thanh (năm 1726), án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai cho tu bổ lại, có tên nữa là Đại Nam Quan. Phía Nam của Ải Nam Quan có Ngữ Đức Đài của nước ta. Bên tả bên hữu có hai dãy hành lang, mỗi khi xứ bộ của nước ta đi Trung Quốc, dùng chỗ này làm nơi tạm nghỉ. Một tấm ảnh chụp từ thời Pháp cũng chỉ rõ vị trí của Ngữ Đức Đài của ta và Ải Nam Quan của Trung Quốc.
- Trong những vòng đàm phán gian khổ vừa rồi, đâu là kỷ niệm sâu sắc nhất với Thứ trưởng?
- Cho đến vòng thứ 32 vừa rồi, cuộc đàm phán vẫn còn hai khu vực là thác Bản Giốc và sông Bắc Luân chưa giải quyết xong. Đây là hai khu vực duy nhất chưa được giải quyết khi ký hiệp ước năm 1999, là hai khu vực mà hai bên không vẽ được bản đồ chung. Hai bên đều đưa ra chủ trương của mình. Phía Trung Quốc cho rằng, thác Bản Giốc thuộc Trung Quốc, còn ta cho rằng Thác Bản Giốc thuộc về ta. Trung Quốc cho rằng toàn bộ cửa sông Bắc Luân thuộc về Trung Quốc, còn ta cho rằng sông Bắc Luân thuộc ta. Vì lập trường của hai bên còn quá xa nhau, do vậy chúng ta và bạn chưa thể giải quyết ngay được, và cũng chính vì vậy không thể kết thúc được việc PGCM. Vòng đàm phán cuối cùng tại Hà Nội trong những ngày cuối năm 2008 là vòng đàm phán vô cùng kịch tính, phải đến những giây phút cuối cùng mới kết thúc trọn vẹn.
Theo lịch trình, hai bên sẽ công bố kết quả đàm phán và ra tuyên bố chung với báo chí vào chiều ngày 31-12-2008. Đúng lịch, 19 giờ cùng ngày hai trưởng đoàn đã công bố kết quả và đọc tuyên bố chung. Tất cả phóng viên báo chí và những người có mặt đều nghĩ mọi việc đã xong xuôi. Nhưng thực ra lúc đó vẫn chưa chính thức kết thúc. Sau khi đọc tuyên bố chung, hai trưởng đoàn lại vào họp tiếp. Phải tới 2 giờ 5 phút sáng 1-1-2009 mới kết thúc toàn bộ quá trình PGCM trên đất liền với Trung Quốc. Tuy rất mệt và căng thẳng nhưng tôi và các đồng chí khác rất vui. Như vậy là biên bản một cuộc họp kéo dài hai năm từ 2008 tới năm 2009 cũng đi tới kết thúc có hậu. Đến khi hai bên trao cho nhau văn bản là 4 giờ sáng. Vô cùng kịch tính. Đây cũng là bài học rất điển hình về đàm phán ngoại giao.
- Chúng ta rút ra được bài học gì từ việc đàm phán trên bộ để tới đây chúng ta tiếp tục đàm phán trên biển.
- Đàm phán trên bộ diễn ra vô cùng khó khăn nhưng cuối cùng hai bên cũng đã giải quyết được. Đàm phán trên biển tới đây cũng sẽ vô cùng khó khăn, nhưng với mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai nước, với lòng mong mỏi của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước thì không có vấn đề khó nào chúng ta không thể giải quyết. Yếu tố quan trọng hàng đầu là hai bên cần kiên trì đàm phán, đặt lòng tin vào thiện chí của các bên để giải quyết vấn đề trên biển như đã từng giải quyết vấn đề trên bộ.
Ngoài thiện chí, các bên cần dựa vào Công ước luật biển năm 1982 mà Trung Quốc và Việt Nam đều tham gia, vì vậy hai bên hiểu rất rõ trách nhiệm và quyền lợi. Đồng thời, các bên cũng cần tuân theo Bộ quy tắc ứng xử biển Đông để cùng nhau giải quyết những vướng mắc. Ngoài ra, các bên cần đàm phán trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đường biên giới tốt nhất là đường biên giới mà hai bên đều cảm thấy hài lòng, đều có thể chấp nhận được.
- Thứ trưởng có đánh giá gì về vai trò của những "người lính" trong công tác PGCM ?
- Các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng đã tham gia phối thuộc trong toàn bộ quá trình PGCM trên tuyến biên giới Việt Trung và là những hạt nhân quan trọng nhất trong cả quá trình này. Các đồng chí được Bộ Quốc phòng cử chuyên trách đều là những người hiểu rất rõ đường biên giới. Các cá nhân và các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng đều quản lý trực tiếp đường biên giới, tham gia tích cực trong từng bước công việc cụ thể trong việc PGCM. Sau này, khi toàn tuyến chính thức đưa vào sử dụng, Bộ Tư lệnh Biên phòng sẽ trực tiếp nắm, quản lý, bảo vệ toàn tuyến biên giới này. Như vậy, Bộ Quốc phòng chính là những người đi theo từ đầu tới cuối và mãi mãi gắn với đường biên giới. Từ khi bắt đầu đàm phán tới lúc hoàn công, Bộ Quốc phòng đã đóng góp rất lớn cả về sức người, sức của. Thậm chí đã có cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh anh dũng để chúng ta giành được thắng lợi trọn vẹn này.
Tôi đánh giá rất cao sự hợp tác và cống hiến của cán bộ, chiến sĩ các đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, đề cao những phẩm chất hết mình vì công việc, sẵn sàng tới những nơi khó khăn gian khổ nhất để hoàn thành nhiệm vụ.
- Xin cảm ơn đồng chí !
NGUYỄN HÒA (thực hiện)