 |
|
Nhân dân Lào thăm hỏi và tặng quà bộ đội tình nguyện Việt Nam sau chiến thắng Thượng Lào năm 1953. Ảnh tư liệu
|
Cách đây tròn 70 năm, ngày 20-1-1949, tại chiến khu Xiengkhor, Sam Neua (nay là tỉnh Houaphan), Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ thị thành lập Đại đội Latxavong, đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên do đồng chí Kaysone Phomvihane trực tiếp chỉ huy. Sau đó, các đội vũ trang khác trong cả nước lần lượt hợp nhất về Đại đội Latxavong thành Quân đội Lào Itxala, tiền thân của QĐND Lào ngày nay. Ngày 20-1 hằng năm trở thành ngày truyền thống của QĐND Lào.
Quân đội Lào Itxala ra đời là kết quả của một quá trình đấu tranh gian khổ của các bộ tộc và nhân dân Lào; đồng thời là kết quả của sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết quân sự khoa học và cách mạng vào điều kiện cụ thể của đất nước Lào. Ngay sau khi thành lập, tuy số lượng ít, trang bị vũ khí còn thô sơ, nhưng Quân đội Lào Itxala đã mang đầy đủ bản chất của một quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, cùng nhân dân và vì nhân dân mà chiến đấu. Đó chính là nguồn gốc tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội Lào để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Chưa đầy nửa năm sau khi ra đời, các đơn vị quân đội Lào đã kề vai sát cánh cùng nhân dân các bộ tộc Lào và Quân tình nguyện Việt Nam mở các chiến dịch ở Tây Bắc và Bắc Lào giành thắng lợi, mở rộng cơ sở địch hậu và khai thông biên giới Lào-Việt ở phía Bắc. Cùng với sự phát triển không ngừng của lực lượng cách mạng trên cả nước, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân đội Lào càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành, cùng Quân tình nguyện Việt Nam liên tiếp giành những thắng lợi to lớn; tiêu biểu là Chiến dịch Thượng Lào giải phóng Sam Neua, Phongsaly; Chiến dịch Trung Lào giải phóng một vùng rộng lớn từ Nam, Bắc Đường 9 đến Đông Savannakhet với hàng chục vạn dân, hãm địch vào thế “Đông Dương bị cắt làm đôi”; Chiến dịch Hạ Lào loại khỏi cuộc chiến đấu hơn 1.000 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn, nối liền các căn cứ du kích vùng Đông Bắc Campuchia với vùng giải phóng Hạ Lào.
 |
|
Lễ kết nghĩa giữa bộ đội Việt Nam và bộ đội Pathet Lào trong Chiến dịch Thượng Lào năm 1953. Ảnh tư liệu
|
Những thắng lợi to lớn trên đã uy hiếp và làm phân tán quân địch trên toàn chiến trường Đông Dương, tạo điều kiện quan trọng để quân và dân Việt Nam tiến hành Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953-1954, mà đỉnh cao là Chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ giành thắng lợi lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, công nhận nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Sau khi Hiệp định Geneva được ký kết, đế quốc Mỹ đã ráo riết can thiệp vào các nước Đông Dương, đặt Lào, miền Nam Việt Nam và Campuchia vào “khu vực bảo hộ” của Liên minh chính trị-quân sự do Mỹ đứng đầu ở Đông Nam Á. Để gạt bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Pháp, đế quốc Mỹ lập ra chính quyền, cải tổ quân đội phái hữu Vientiane, tăng cường viện trợ quân sự nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở Lào.
Để đối phó với âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, cùng với việc tăng cường, phát triển lực lượng, Quân đội Lào đã kiên cường chiến đấu bảo vệ khu tập kết, đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của quân phái hữu Vientiane. Phát huy truyền thống đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu trong kháng chiến chống thực dân Pháp, một lần nữa, quân đội hai nước Việt-Lào lại kề vai sát cánh bên nhau, quyết tâm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, khi đế quốc Mỹ càng điên cuồng leo thang chiến tranh, quân đội hai nước càng tăng cường đoàn kết bên nhau, đồng cam cộng khổ, kiên quyết chiến đấu và giành nhiều thắng lợi vang dội. Trong suốt cuộc kháng chiến, quân và dân Lào đã cùng Quân tình nguyện Việt Nam liên tiếp mở các chiến dịch và các trận đánh lớn, nhỏ, tiến công tiêu diệt địch trên khắp các chiến trường, mở rộng và giữ vững vùng giải phóng, lần lượt đánh bại các chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh đặc biệt tăng cường” của địch trên nước bạn Lào.
Những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường Lào cũng như ở Campuchia và Việt Nam, cùng những thắng lợi to lớn trên mặt trận đấu tranh ngoại giao, đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về Việt Nam và Hiệp định Vientiane về Lào. Đến giữa năm 1975, khi thời cơ cách mạng chín muồi, quân và dân Lào đã đồng loạt nổi dậy và tiến công toàn diện để giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2-12-1975, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào chính thức ra đời, kết thúc cuộc kháng chiến cứu nước, giải phóng dân tộc trong suốt 30 năm, đưa cách mạng Lào bước sang một giai đoạn mới: Giai đoạn xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Bước vào giai đoạn xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, QĐND Lào tiếp tục vượt qua những khó khăn, thử thách, vừa xây dựng phát triển lực lượng, vừa cùng nhân dân chiến đấu đập tan các cuộc bạo loạn, gây rối, đánh trả thích đáng các hành động vũ trang khiêu khích, lấn chiếm biên giới của kẻ thù, truy quét lực lượng phản động nội địa và vùng biên giới.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, lực lượng vũ trang nhân dân Lào được xây dựng trên cơ sở nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và vững chắc; QĐND Lào ra sức củng cố, hoàn thiện về tổ chức, biên chế, trang bị, tiến tới xây dựng quân đội theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, cùng toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định về chính trị, xã hội để phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Trải qua 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, QĐND Lào đã lập nên những chiến công xuất sắc, xứng đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, công cụ bạo lực cách mạng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào. Để ghi nhận những công lao to lớn trong chiến đấu cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước Lào đã 3 lần tặng thưởng Huân chương Vàng quốc gia cho QĐND Lào-phần thưởng cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào.
 |
|
Thượng tướng Phan Văn Giang và các đại biểu dự Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập QĐND Lào do Bộ Quốc phòng Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 18-1. Ảnh: Trọng Hải
|
Trong suốt 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào, được sự đùm bọc, chở che của nhân dân hai nước, QĐND Việt Nam và QĐND Lào luôn sát cánh bên nhau, giữ vững và không ngừng tăng cường tình đoàn kết, gắn bó keo sơn, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau, cùng vượt qua những thử thách ác liệt nhất của lịch sử để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đó chính là một điển hình mẫu mực hiếm có về mối quan hệ đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu giữa quân đội hai nước, là di sản vô cùng quý báu mà chúng ta và thế hệ mai sau đều có trách nhiệm giữ gìn và tiếp tục phát triển.
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân và quân đội hai nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” bằng những thủ đoạn ngày càng thâm độc, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào đối với sự nghiệp cách mạng của mỗi nước và “phi chính trị hóa” quân đội, xóa bỏ chế độ xã hội tiên tiến mà nhân dân hai nước đang xây dựng. Thâm độc hơn, chúng ra sức tuyên truyền xuyên tạc, kích động, gây chia rẽ mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam-Lào.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao đối với quân đội mỗi nước trong bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; đồng thời đặt ra yêu cầu mới trong hợp tác quốc phòng giữa hai nước, bảo đảm cho quan hệ hợp tác quốc phòng thực sự trở thành một trong những trụ cột của quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào.
Do đó, cùng với việc tăng cường bản chất cách mạng, xây dựng quân đội theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu, quân đội hai nước cần đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị, phối hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại, chia rẽ mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt giữa hai nước. Chú trọng hợp tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ; tăng cường công tác giáo dục truyền thống để cán bộ, chiến sĩ hai quân đội cũng như thế hệ trẻ hai nước hiểu sâu sắc và nêu cao trách nhiệm trong giữ gìn, vun đắp quan hệ đoàn kết đặc biệt ngày càng phát triển bền vững.
Cùng với đó, quân đội hai nước cần tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong xây dựng và bảo vệ tuyến biên giới Việt Nam-Lào hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển; hợp tác hỗ trợ cùng khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra tại mỗi nước; hợp tác trong phòng, chống các loại tội phạm trên tuyến biên giới; phối hợp tổ chức tốt các cuộc giao lưu biên cương thắm tình hữu nghị, chú trọng tiếp xúc, trao đổi thông tin, kinh nghiệm, qua đó tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau; đồng thời tăng cường hợp tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào để các anh hùng liệt sĩ sớm được trở về quê hương Đất Mẹ.
Chúng ta mãi mãi tự hào về truyền thống vẻ vang của QĐND Lào với nhiều chiến công oanh liệt trong thế kỷ 20 và ngời sáng bản chất cách mạng trong thời đại ngày nay; tự hào về tình đoàn kết đặc biệt, thủy chung, trong sáng, vững bền giữa hai dân tộc, được các thế hệ lãnh đạo, nhân dân và cán bộ, chiến sĩ quân đội hai nước dày công vun đắp bằng công sức và cả máu xương của mình.
Thượng tướng PHAN VĂN GIANG
Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
(*) Đầu đề của Báo Quân đội nhân dân