QĐND - Quán triệt và triển khai Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 806-NQ/TW của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo... trong nhiệm kỳ 2011-2015, công tác hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng và hợp tác kỹ thuật quân sự được triển khai đúng kế hoạch, hiệu quả thiết thực, góp phần tích cực vào hoạt động đối ngoại chung của Đảng, Nhà nước, nâng cao vị thế của Đảng, Nhà nước, quân đội, đất nước trên trường quốc tế.

Các mối quan hệ song phương được tăng cường trên cơ sở các văn bản đã ký kết, đưa quan hệ quốc phòng với các nước tiếp tục đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực trên các lĩnh vực: An ninh biển, đào tạo, huấn luyện tham gia Lực lượng Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc... Bộ Quốc phòng đã tham mưu, đề xuất các lĩnh vực, mức độ hợp tác quốc phòng phù hợp với từng đối tác, đặc biệt là với các đối tác chiến lược. Trao đổi đoàn các cấp được thực hiện theo đúng kế hoạch đề ra.

Quan hệ quốc phòng song phương với các nước có biên giới liền kề tiếp tục được quan tâm thúc đẩy. Quan hệ quốc phòng với các nước lớn được tăng cường nhằm tạo thế cân bằng chiến lược, đan xen lợi ích, thực hiện mục tiêu độc lập, tự chủ tạo thế cho đất nước. Tiếp tục duy trì và thúc đẩy hợp tác quốc phòng với các nước ASEAN đi vào chiều sâu, trên cơ sở các văn bản thỏa thuận được ký kết.

Bộ Quốc phòng tham gia và đưa ra các sáng kiến hợp tác thiết thực, hiệu quả tại các hội nghị, diễn đàn an ninh, quân sự quốc phòng đa phương trong khuôn khổ ADMM, ADMM+, ARF, Shangri-La... Thực hiện có hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế có tính chất nhân đạo như tìm kiếm, cứu nạn, cứu trợ thảm họa, khắc phục hậu quả chiến tranh (MIA, bom, đạn, đi-ô-xin...); Trung tâm Gìn giữ hòa bình Việt Nam được thành lập và đi vào hoạt động tháng 5-2014…

Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp quân đội tích cực tham gia các hoạt động thúc đẩy việc xây dựng cơ chế tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế như tham gia đàm phán TPP, FA giữa Việt Nam với Liên minh Hải quan Nga - Ca-dắc-xtan - Bê-la-rút, giữa Việt Nam với EU, đóng góp ý kiến về phương hướng và ưu tiên của Việt Nam tham gia APEC 2014...

Trong công tác đối ngoại quốc phòng đã kết hợp chặt chẽ các hoạt động thương mại quân sự với kỹ thuật quân sự và hợp tác về công nghiệp quốc phòng. Từ đó đã tạo thuận lợi trong việc lựa chọn, nhập khẩu các loại vũ khí, trang thiết bị quân sự cho các quân binh chủng và vật tư cho sản xuất, sửa chữa quốc phòng của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng.

Tăng cường hợp tác các dự án nhận chuyển giao công nghệ, có trình độ tiên tiến, hợp tác xuất khẩu các sản phẩm do công nghiệp quốc phòng Việt Nam sản xuất, kết hợp quốc phòng và kinh tế; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp quân đội chủ động, tích cực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng và phát triển kinh tế.

Hoạt động thương mại quân sự được thúc đẩy mạnh mẽ, tiếp tục đàm phán, ký kết các hợp đồng mua sắm vật tư, trang thiết bị quân sự hiện đại, tiên tiến, đáp ứng từng bước nhu cầu của các đơn vị, đồng thời hợp tác chặt chẽ với các đối tác nước ngoài trong triển khai các dự án trọng điểm và các dự án nhận chuyển giao công nghệ của nước ngoài, bảo đảm đáp ứng đúng nhu cầu, chất lượng và hiệu quả.

Nhiệm kỳ qua, chúng ta đã mở rộng cả về quy mô, nội dung và hình thức hợp tác kỹ thuật quân sự. Đến nay, chúng ta đã có quan hệ hợp tác kỹ thuật quân sự với hàng chục quốc gia, không chỉ đối với đối tác truyền thống mà còn mở rộng đến nhiều đối tác mới.

Chính nhờ có hợp tác kỹ thuật quân sự mà những năm gần đây nền công nghiệp quốc phòng nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, có khả năng sản xuất được một số loại thiết bị, vũ khí, đạn... Từ việc chỉ sản xuất chi tiết, cụm chi tiết đã tiến lên sản xuất được vũ khí và đóng mới được tàu chiến. Về sửa chữa, cải tiến vũ khí, trang bị, chúng ta đã có các chương trình hợp tác cải tiến, hiện đại hóa nhiều loại vũ khí trang bị kỹ thuật.

Hợp tác kỹ thuật quân sự với nhiều quốc gia, chúng ta có cơ hội đa dạng hóa vũ khí, trang bị từ nhiều nguồn, hệ thống vũ khí trang bị phong phú, công nghệ hiện đại và có sự lựa chọn bảo đảm phù hợp với điều kiện cũng như nhu cầu. Qua đó, chúng ta mua sắm được nhiều vũ khí, trang bị hiện đại, đào tạo được số lượng lớn cán bộ, nhân viên kỹ thuật có trình độ, khả năng khai thác làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật mới mua sắm, chuyển giao nhiều công nghệ, kinh nghiệm, bí quyết công nghệ và cải tiến nâng cấp vũ khí trang bị kỹ thuật.

Tuy nhiên, hợp tác quốc tế về kỹ thuật quân sự với nước ngoài của Quân đội ta hiện nay mới tập trung vào các lĩnh vực: Mua sắm vũ khí trang bị kỹ thuật mới; hợp tác, chuyển giao công nghệ, sản xuất vũ khí trang bị kỹ thuật; bảo dưỡng, sửa chữa, cải tiến và nâng cấp vũ khí trang bị kỹ thuật cũng như đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì thế, trong nhiệm kỳ tới, tôi đề nghị bổ sung trong hợp tác kỹ thuật quân sự cần đặc biệt quan tâm đến hợp tác về lĩnh vực thiết kế sản phẩm vũ khí, trang bị kỹ thuật mới và chuyển giao công nghệ để bảo đảm kỹ thuật cho các loại vũ khí hiện đại đã mua sắm.

 Để thực hiện được điều này, các cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học cần chủ động xây dựng kế hoạch hợp tác khoa học-công nghệ kỹ thuật quân sự theo hướng tập trung, thiết thực, hiệu quả có trọng tâm, trọng điểm. Cần ưu tiên bố trí ngân sách và có cơ chế đặc thù để thực hiện tốt nhiệm vụ nói trên.

Trong lĩnh vực hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa đối ngoại quốc phòng với ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng và ngoại giao nhân dân; kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại quốc phòng với an ninh và đối ngoại kinh tế.

Đại tá, Thạc sĩ NGUYỄN ĐẮC HẢI