QĐND - Để bảo đảm nguồn lực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội kế hoạch 5 năm giai đoạn 2016-2020, trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng đề ra mục tiêu: “Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5-7%/năm, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200-3.500USD vào năm 2020”, trên cơ sở dự báo về cân đối tích lũy tiêu dùng, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 5 năm được dự kiến cần hơn 10 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 31% GDP.

Ảnh minh họa. Nguồn: baochinhphu.vn

Đáng chú ý là nguồn vốn đầu tư của khu vực tư chiếm tỷ trọng lớn hơn cả, được kỳ vọng chiếm khoảng 49% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, bên cạnh nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước (NSNN) dự kiến chiếm khoảng 18%, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước khoảng 4% và nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 12%. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dự kiến khoảng 68 tỷ đô-la Mỹ, chiếm 14% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) dự kiến giải ngân khoảng 27 tỷ đô-la Mỹ. So với giai đoạn 2011-2015, trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội 5 năm huy động ước đạt 5,6 triệu tỷ đồng, gấp hơn 1,8 lần so với giai đoạn 2006-2010, thì vốn đầu tư của khu vực tư chiếm tỷ trọng cao nhất, cũng chỉ 39,7%. Còn lại là vốn đầu tư từ NSNN, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng đầu tư và tín dụng chính sách, vốn đầu tư từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước, vốn ODA. Như vậy, việc huy động các nguồn lực trong dân cho đầu tư phát triển giai đoạn tới đây dự kiến tăng đáng kể so với cùng kỳ.

Cơ cấu dự kiến các nguồn vốn đầu tư phát triển cho thấy xu thế “phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp” như Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã yêu cầu. Quan trọng nhất là định hướng cho đầu tư của khu vực tư nhân bám sát các mục tiêu trong chiến lược 10 năm, kế hoạch 5 năm 2016-2020 phát triển kinh tế-xã hội, góp phần cùng với nguồn lực của Nhà nước thực hiện đột phá về xây dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện đại, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững, theo hình thức hợp tác công-tư (PPP) thông qua hệ thống chính sách, văn bản pháp luật được ban hành, tạo môi trường thuận lợi hơn thu hút các nguồn vốn đầu tư tư nhân và thúc đẩy xã hội hóa trong đầu tư.

Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986-2016), Dự thảo Văn kiện của Đảng đã nhận định “kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động”. Do đó, để kinh tế phát triển tương xứng với nguồn lực được huy động, nhất là trong tình hình thu ngân sách gặp nhiều khó khăn do giá dầu thô giảm sâu và thực hiện cắt giảm thuế theo các cam kết quốc tế về tự do thương mại, việc huy động vốn đầu tư toàn xã hội phải phù hợp với khả năng cân đối vốn đầu tư từ nguồn NSNN và thu hút nguồn vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác, trong từng ngành, lĩnh vực và địa phương.

Bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu tư theo hình thức công-tư (PPP) nhằm huy động bổ sung thêm nguồn vốn NSNN thực hiện đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội theo hướng hiện đại, đặc biệt là giải pháp về cơ chế chính sách và các quy định pháp luật về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của chủ đầu tư, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và doanh nghiệp đối với từng hình thức PPP cụ thể. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa đối với các dịch vụ công trong y tế, giáo dục-đào tạo, văn hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân ở nông thôn. Chúng ta đang tiếp tục cơ cấu lại chi tiêu của NSNN theo hướng sử dụng tiết kiệm và nâng cao hiệu quả, giảm các khoản chi thường xuyên để tăng dần cơ cấu chi đầu tư phát triển. Tất cả nguồn vốn vay để đầu tư được kiểm soát một cách chặt chẽ về mục tiêu, hiệu quả đầu tư và những tác động của vay vốn đến kinh tế vĩ mô, như cân đối ngân sách, lạm phát, dư nợ công, dư nợ Chính phủ và nghĩa vụ trả nợ… Đây là lần đầu tiên chúng ta xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm nguồn vốn NSNN và chuyển từ cân đối vốn hằng năm sang cân đối vốn trong nước cả giai đoạn 5 năm cả ở tầm quốc gia và các cấp ngân sách một cách công khai, minh bạch theo tinh thần cải cách hành chính mạnh mẽ và tăng cường phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong đầu tư công.

Việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực vật chất của toàn xã hội song song với nâng cao hiệu quả đầu tư xã hội, đầu tư công sẽ góp phần “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại đồng bộ, tổng thể nền kinh tế và các ngành, các lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng” như Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định, trong đó có cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công, bảo đảm an toàn nợ công để “tiếp tục đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đột phá về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực”.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XII cho thấy, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm là cần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước và thế giới”. Vì vậy, bên cạnh các kết quả đạt được, chúng ta cũng cần chỉ ra những hạn chế trong thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển giai đoạn 2011-2015 như chưa thực sự cơ cấu lại đầu tư công theo nghị quyết của Đảng, dành ít “dư địa” cho các thành phần kinh tế khác; công tác thẩm định, bố trí vốn đầu tư chưa thật sự tốt, tình trạng đầu tư dàn trải; các công trình, dự án dở dang do thiếu vốn; tình trạng lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp vẫn còn khá phổ biến ở đầu tư công. Do đó, tôi cho rằng, trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng cần đặc biệt nhấn mạnh, khẳng định việc huy động mạnh mẽ các nguồn lực còn tiềm ẩn trong nhân dân như Đảng ta đã từng bắt đầu công cuộc đổi mới cách đây 30 năm bằng việc “cởi trói” cho lực lượng sản xuất của toàn xã hội, nhất là ở khu vực tư nhân, đã làm nên những kỳ tích trong 20 năm đầu đổi mới. Văn kiện Đại hội XII cũng cần khuyến khích người dân vươn lên làm giàu cho chính mình để “dân giàu” thì nước mới mạnh, xã hội mới “dân chủ, công bằng, văn minh”, bảo đảm giữ vững an ninh, chủ quyền quốc gia trên đất liền và trên biển, để nước ta có tiếng nói trọng lượng trong các vấn đề của khu vực và quốc tế, nâng tầm và vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Chỉ có như vậy chúng ta mới thực hiện được mục tiêu mà Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng đề ra là “tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế”. Bài viết này cũng coi là một đóng góp có trách nhiệm của một đại biểu dân cử tỉnh Cà Mau, tỉnh cực Nam của Tổ quốc cho Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng sắp tới trong việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội cho phát triển bền vững đất nước.

Tiến sĩ TRẦN VĂN 

(Đại biểu Quốc hội tỉnh Cà Mau)