Thu hoạch lúa. Ảnh: Internet

QĐND Online - Ngành nông nghiệp Vịêt Nam chiếm phần lớn thu nhập ở Việt Nam với 20% GDP, 90% hộ nghèo sống ở khu vực nông thôn, 70% hộ gia đình sống phụ thuộc và nông nghiệp. Tuy nhiên, ngành sản xuất nông nghiệp Việt Nam lại gặp nhiều rủi ro, trong đó có rủ ro thiên tai, dịch bệnh là nghiêm trọng nhất. Nhưng hiện nay, những rủi ro đó chưa được bảo hiểm, mặc dù số nông hộ có nhu cầu và đủ điều kiện mua bảo hiểm là rất lớn.

Cần phải có một thị trường bảo hiểm mới

PGS. Đào Văn Hùng, khoa Ngân hàng tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội cho biết, thị trường bảo hiểm nông nghiệp đang bị bỏ ngỏ mặc dù là thị trường đầy tiềm năng, nhất là đối với những hộ nông dân trồng cây công nghiệp như cao su, cà phê, điều... và nuôi trồng thuỷ sản. Còn đối với số lượng lớn hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ cũng cần được bảo hiểm, nhất là khi họ áp dụng khoa học kỹ thuật mới gặp nhiều rủi ro, để có thể yên tâm phát triển sản xuất. Về lâu dài, theo PSG. Đào Văn Hùng, Chính phủ không thể bảo hộ, hỗ trợ khẩn cấp được mãi cho các hộ gia đình trên quy mô rộng, với thời gian lâu dài mỗi khi có thiên tai, dịch bệnh xảy ra đột ngột, do đó rất cần phải có một thị trường bảo hiểm mới.

Tuy nhiên để xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam thì cũng còn nhiều thách thức. Theo PSG. Đào Văn Hùng, do thời tiết ở nước ta diễn biến rất phức tạp theo mùa, theo vùng địa lý, nên việc hình thành các sản phẩm bảo hiểm phù hợp, tương ứng và đảm bảo được lợi ích của người tham gia là rất khó khăn. Ngoài ra, đặc điểm của bảo hiểm nông nghiệp ở nước ta là bảo hiểm cho những rủi ro xảy thường xuyên do có nhiều thiên tai, dịch bệnh nên đây cũng là thị trường có nhiều rủ ro đối với các nhà đầu tư.

PGS. Đào Văn Hùng cho biết, trong những năm 1990, Bảo Việt Việt Nam đã thử nghiệm bán 2 sản phẩm bảo hiểm truyền thống là bảo hiểm dựa trên sản lượng dành cho nhiều loại rủi ro và bảo hiểm dựa trên thiệt hại dành cho rủi ro đặc thù của địa phương. Nhưng 2 sản phẩm bảo hiểm này không gặt hái được thành công vì chỉ thực hiện ở bảo hiểm hộ nông dân nhỏ lẻ, dữ liệu không sẵn có, nông dân tạo ra nhiều rủi ro hơn sau khi mua bảo hiểm, chỉ có hộ nông có rủi ro nhất mới mua… Vì vậy bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam đang hướng tới mô hình bảo hiểm theo chỉ số. Bảo hiểm theo chỉ số là dịch vụ bảo hiểm trong đó việc bồi thường được thực hiện dựa trên một chỉ số độc lập, khách quan được thiết kế làm trung gian phản ánh chính xác mức độ thiệt hại. Các chỉ số có thể được bảo hiểm là: mưa, nhiệt độ, mực nước, sông, tuyết... Bảo hiểm diễn ra khi vượt qua một ngưỡng đã được định trước. Ưu điểm của mô hình này là chi phí giao dịch bảo hiểm thấp, cấu trúc linh hoạt, có thể tái bảo hiểm. Đặc biệt là ở Việt Nam có các cơ quan thống kê về khí tượng thuỷ văn và dịch bệnh rất tốt, có thể cung cấp nền dữ liệu tương đối đầy đủ cho bảo hiểm theo chỉ số.

Lũ lụt và hạn hán đều có thể được bảo hiểm

Các chuyên gia tư vấn của quỹ bảo hiểm GlobalAgRick Inc cho biết quỹ này đang tiến hành nghiên cứu thử nghiệm bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ số đối với lũ tại Đồng Tháp và hạn hán ở Đắk Lắk. Tại Đồng Tháp, mực nước tại trạm thủy văn Tân Châu được chọn để làm căn cứ xem xét bảo hiểm với ngưỡng được bảo hiểm là 2,80m; ngưỡng dừng bảo hiểm là 3,50m với giá trị bảo hiểm lên tới 1 triệu USD. Người đóng bảo hiểm sẽ được bảo hiểm một phần nào đó của tổng mức thiệt hại dựa trên các chỉ số về mực nước tại Tân Châu. Còn tại Đắk Lắk, các chuyên gia đã chọn mô hình tính toán lượng mưa để làm căn cứ bảo hiểm đối với những người dân trồng cà phê - hoạt động nông nghiệp chịu rủi ro cao nhất, trong đó bảo hiểm sẽ chi trả đền bù thiệt hại bất cứ lúc nào nếu lượng mưa xuống dưới ngưỡng 20 mm trong giai đoạn từ 15-4 đến 15-6 hằng năm.

Tuy nhiên theo GS. Jerry Skees, Chủ tịch GlobalAgRick Inc, để thực hiện bảo hiểm theo chỉ số ở Việt Nam thì cần chỉ rõ người mua bảo hiểm là đối tượng nông, ngư dân nào, họ sản xuất những sản phẩm gì và những sản phẩm gì cần được bảo hiểm. Đặc biệt hồ sơ để đánh giá rủi ro để bảo đảm quyền lợi cho nông dân rất quan trọng, cần xác định rủi ro tác động đến sinh kế người dân như thế nào. Gia súc chết máy móc hỏng hóc sẽ đẩy nông dân vào đói nghèo nhanh, rủi ro về thời tiết bất thường, dịch bệnh tại mỗi địa phương vùng miền khác nhau như thế nào thì cần xây dựng những sản phẩm bảo hiểm phù hợp với từng điều kiện đó.

Một vấn đề khác đặt ra nữa là doanh nghiệp nào sẽ cung cấp sản phẩm bảo hiểm này.Liệu 27 doanh nghiệp phi nhân thọ đang có ở Việt Nam có chấp nhận đứng ra kinh doanh loại hình bảo hiểm này hay không? Khikinh doanh loại hình bảo hiểm này thì cần một nguồn vốn lớn luôn sẵn sàng chuẩn bị cho những rủi ro bất thường và đến nhanh như bão lũ, thiên tai để chi trả kịp cho người dân. Không những thế, việc tái bảo hiểm ở Việt Nam có đủ nguồn lực tiếp nhận được rủi ro hay không, Việc tái bảo hiểm ra nước ngoài không được chấp nhận thì vai trò của Nhà nước trong trường hợp này như thế nào? Do đó rất cần những chủ trương, chính sách của Chính phủ mang tính đột phá, xúc tác mạnh đến việc ra đời và phát triển vừng bền của thị trường bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam nhằm góp phần xây dựng thị trường tài chính nông thôn năng động có tính phản ứng cao với tủi ro.

Lan Anh