Tôi nhớ thầy tôi, cái buổi thầy dạy bài thơ “Những cánh buồm” của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Một bài thơ trong sáng đến thánh thiện, nhẹ nhàng nhưng tha thiết. Một buổi học giản dị nhưng cảm động, thân thiết đến nao lòng. Với lớp 6 chuyên văn của chúng tôi ngày ấy, giờ nhắc lại bài thơ này và thầy Minh, cả 24 bạn đều nghĩ rằng, thầy Minh là một hình ảnh khó quên trong đời học sinh, và thầy đã làm cho tâm hồn của chúng tôi đẹp hơn từ những bài văn thầy giảng.

Bài thơ viết về hai cha con cùng đi dạo trên bãi biển khi đất nước thanh bình. Con hỏi cha về những cánh buồm, về những nơi xa không có cây, không có người. Cha nói, nơi đó sẽ có cây, có người, và vẫn là đất nước Việt Nam ta, cánh buồm sẽ mang con đi đến đó. Trước biển khơi vô tận, trước những câu hỏi của con, cha xúc động gặp lại mình từ thời xa xưa và hy vọng, con sẽ là cánh buồm, đi tiếp những ước mơ mà cha còn dang dở.

Một bài thơ đẹp, tinh tế như hương hoa Loa kèn tháng Tư. Có lẽ bây giờ, nhiều cô, cậu học sinh, suốt ngày vào mạng “chát chit” hay chơi điện tử quên cả giờ ăn giờ học, thì khó có thể cảm nhận được. Chẳng trách gì những kỳ thi gần đây, có những bài văn ngớ ngẩn đến đau lòng, có những sự “hồn nhiên” kiểu “em không thích bài thơ này nên em không thấy nó hay, nó đẹp” đến đáng thương. Và có lẽ, với những nhà thơ, nhà văn trẻ thích chơi trội với những thứ thơ văn dị dạng, cũng sẽ cười sằng sặc rằng “Những cánh buồm” đã xa xưa như Trái Đất. Hay với một số nhà giáo hôm nay, coi trọng tiền hơn nghề, khó mà có thể truyền đạt được cái hay, cái đẹp của những bài thơ như “Những cánh buồm” đến với học sinh.

Quên sao được. Buổi dạy hôm đó thầy tôi mặc chiếc áo trắng mà một thời thầy thay nó để khoác bộ quân phục theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Thầy đặt mình vào hình ảnh người cha, khi cầm súng chiến đấu với quân thù lòng vẫn nghĩ có ngày dắt tay con mình đi trên quê hương thanh bình để nghe tiếng cười, tiếng nói của con. Có lẽ, Hoàng Trung Thông cũng vậy, ông viết bài thơ này trong cảnh đất nước vừa im tiếng súng chưa lâu. Chiến tranh có thể làm dang dở những ước mơ của tuổi trẻ, nhưng niềm hy vọng lại thắp sáng ở tim họ niềm tin vào một thế hệ kế cận. Trên chiến trường, thầy tôi đã từng nghĩ, nếu thầy không trở lại, thì cũng sẽ có những người cha dắt tay con đi trên hè phố, họ là những đồng đội của thầy. Và trong hoàn cảnh gieo neo đó, niềm tin, niềm hy vọng đã cho thế hệ của thầy tất cả.

“Giờ đây đứng trước các em, thầy có cảm giác như thầy là người cha ấy, và các em như người con trên bãi biển. Các em hãy cứ hình dung những gì ở phía trước, và những vùng xa tít tắp, chúng ta sẽ đến đó để gieo những mầm xanh. Thế hệ của thầy, và những đồng đội của thầy, người trở về như thầy, người mãi mãi nằm lại cùng ước mơ của tuổi trẻ. Mọi thế hệ là một mắt xích dù hoàn cảnh có thế nào thì chúng ta vẫn phải sống, vẫn phải lao động và yêu thương để cho thế hệ tiếp sau ta có cái đà mà vươn, có cái chiều mà tiến. Những gì thế hệ đi trước chưa làm được, thì hãy biết động viên tinh thần cho thế hệ đi sau tiếp tục làm” - thầy tôi đã giảng phần liên tưởng như thế.

Năm tháng trôi đi, bài thơ cùng hình ảnh thầy thi thoảng lại gợi nhớ trong lòng một số thành viên lớp 6 văn ngày ấy. Năm tôi vào đại học, nghe tin thầy bệnh không qua khỏi, do vết thương từ thời đạn bom tái phát. Tôi khấn trước bàn thờ thầy: “Thầy ơi, vậy là thầy không còn bước đi cùng chúng em, nhưng giờ đây, các bạn đã mỗi người một cánh buồm, thầy hãy yên lòng là chúng em sẽ vượt qua được sóng gió”.

Và quả thật, cánh buồm chở tôi đi, đã, đang và sẽ còn vượt qua nhiều sóng gió nữa. Mọi bon chen của cuộc sống, mọi xảo trá của cuộc đời rồi sẽ là vô nghĩa hết, hãy biết ngẩng cao đầu mà đi, mà sống, tôi đã nhủ mình như thế mỗi lần nghĩ về thầy, và những giờ giảng văn quý báu.

Cha lại dắt con đi trên cát mịn

Ánh nắng tỏa đầy vai

Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời

Con lại trỏ cánh buồm xa nói khẽ

“Cha mượn cho con buồm trắng nhé

để con đi…”

Lời của con hay tiếng sóng thầm thì

Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm

Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận

Cha lại gặp mình trong tiếng ước mơ con…

Hôm trước giảng văn cho đứa cháu về bài thơ này, tôi thấy ngường ngượng khi đặt mình vào hình ảnh của người cha. Hai mươi lăm tuổi, còn rất nhiều điều mà ở cái tuổi đó phải hoàn thành, tôi chưa làm được. Biết trả lời sao với câu hỏi của cháu: “Chú đã bỏ dở quá nhiều ước mơ chưa?”. Đặt mình vào hình ảnh của thầy ngày trước để làm ví dụ cho cháu thì khó, bởi vì, các thế hệ dù tiếp theo nhau đấy, nhưng không phải là nhau. Mà nói, những gì chú còn dang dở thì thế hệ các cháu sẽ làm, thì sao được? Thế hệ của thầy tôi dở dang vì chiến tranh, thì thế hệ tôi, việc gì mà dang dở? Mà nói với cháu tôi rằng, thế hệ chú, còn một số người không được tạo cho cơ hội để cống hiến do tiêu cực xã hội, thì lại càng không được, vì như thế bài văn sẽ xa đề. Và quan trọng nhất, tôi không muốn tâm hồn trong trắng của cháu tôi phải nghĩ đến điều đó. Và càng không muốn, sau này, thế hệ của cháu tôi lại phải đối mặt với nhiều mặt trái của xã hội…

HOÀNG NGUYÊN VŨ