QĐND Online - Sáng 7-6, Quốc hội đã nghe Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) về kết quả giám sát việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP) cho đầu tư xây dựng cơ bản, giai đoạn 2006-2012. Tính đúng đắn của việc phát hành trái phiếu Chính phủ được khẳng định, nhưng báo cáo cũng thẳng thắn chỉ ra nhiều hạn chế, thiếu sót…
Hết năm 2012, đã hoàn thành được 2.029 dự án
Qua giám sát cho thấy, việc Quốc hội, UBTVQH, Chính phủ quyết định chủ trương phát hành TPCP cho đầu tư các công trình, dự án quan trọng giai đoạn 2006 - 2012 là đúng đắn, góp phần quan trọng nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của từng địa phương nói riêng.
 |
Tuyến đường Nước Xa - Trà Dơn - Trà Leng, một trong những dự án sử dụng trái phiếu Chính phủ. Ảnh: http://baoquangnam.com.vn |
Theo Báo cáo số 196/BC-CP ngày 17-5-2013 của Chính phủ, giai đoạn 2006 - 2012, trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, ký túc xá sinh viên, di dân tái định cư đã bố trí vốn TPCP thực hiện 2.682 dự án (tương đương 2.863 dự án và tiểu dự án) với tổng mức đầu tư (TMĐT) ban đầu là 409.415,5 tỷ đồng. Tính đến thời điểm giao kế hoạch năm 2012, các dự án nêu trên đã điều chỉnh TMĐT lên 684.794,5 tỷ đồng. Đến hết năm 2012 đã hoàn thành được 2.029 dự án.
Về cơ bản, các bộ, ngành, địa phương đã tuân thủ các quy định về quản lý, sử dụng nguồn vốn TPCP. Công tác giải ngân vốn TPCP được tăng cường trong những năm gần đây. Việc tổ chức, triển khai thực hiện các dự án sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2006 - 2012 đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm; nhiều dự án đã hoàn thành, đưa vào sử dụng và bước đầu phát huy hiệu quả. Tính chung trong cả giai đoạn 2006 - 2012, tỷ lệ giải ngân khá cao. Tình trạng nợ khối lượng xây dựng cơ bản (XDCB) trong thực hiện vốn TPCP bước đầu đã được cải thiện. Việc phân bổ và giao vốn TPCP trung hạn giai đoạn 2012 - 2015 đã tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương chủ động trong việc sắp xếp, bố trí nguồn lực theo thứ tự ưu tiên, trong đó tập trung bố trí vốn cho các dự án có khả năng hoàn thành trong các năm 2012 - 2013, giảm dần tỷ lệ nợ đọng trong XDCB, giảm thiểu tình trạng lãng phí do bố trí vốn thiếu tập trung, dàn trải.
Các dự án, công trình hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng là những công trình quan trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu của quốc gia, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo ở các tỉnh khó khăn; nâng cấp hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, ký túc xá sinh viên, đặc biệt là những tuyến đường giao thông quan trọng của đất nước, đường tuần tra biên giới, đường ô tô đến trung tâm xã, các công trình thủy lợi quan trọng vùng nông thôn, vùng núi còn nhiều khó khăn; tăng cường công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân; xóa bỏ trường lớp tạm, xây dựng nhà ở cho giáo viên ở vùng sâu, vùng xa…
Mất cân đối vốn do tăng tổng mức đầu tư
Tuy đã đem lại những kết quả tích cực, nhưng trong quá trình triển khai đã diễn ra tình trạng điều chỉnh tăng TMĐT quá lớn ở hầu hết các dự án dẫn đến mất cân đối về nguồn vốn; nhiều dự án điều chỉnh TMĐT do tăng giá, điều chỉnh yếu tố kỹ thuật, tăng quy mô chưa hợp lý, không đúng với quy định của pháp luật.
TMĐT ban đầu của các công trình, dự án thuộc danh mục đầu tư từ nguồn vốn TPCP giai đoạn 2003 - 2010 là 150.668 tỷ đồng, với nhu cầu sử dụng vốn TPCP là 110.000 tỷ đồng. Tại Báo cáo số 152/BC-CP ngày 19-10-2010 của Chính phủ, TMĐT điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 570.990 tỷ đồng, trong đó nhu cầu sử dụng vốn TPCP là 530.302 tỷ đồng, nhu cầu còn lại sau năm 2010 là 315.000 tỷ đồng. Tuy nhiên đến nay, theo Báo cáo số 196/BC-CP ngày 17-5-2013 của Chính phủ, TMĐT đã điều chỉnh lên 684.794,5 tỷ đồng.
Hầu hết các dự án đều có phát sinh, phải điều chỉnh TMĐT so với phê duyệt ban đầu. Có dự án điều chỉnh TMĐT gấp nhiều lần, có những dự án không chỉ điều chỉnh về giá nhân công, vật liệu, giá đền bù, giải phóng mặt bằng, thiết kế kỹ thuật,... mà còn điều chỉnh cả về quy mô của dự án. Việc này dẫn đến TMĐT các dự án sử dụng nguồn vốn TPCP đã tăng lên nhiều so với dự toán ban đầu.
Nghị quyết số 881/2010/UBTVQH12 của UBTVQH cho phép điều chỉnh TMĐT do “...nguyên nhân khách quan về giá vật tư, nhân công và các yếu tố khách quan khác làm tăng tổng mức đầu tư”. Như vậy, UBTVQH chỉ cho phép điều chỉnh TMĐT do yếu tố giá và các yếu tố về kỹ thuật ở các dự án đầu tư. Qua giám sát cho thấy, việc điều chỉnh TMĐT 144.976,4 tỷ đồng so với TMĐT tại Nghị quyết số 881/2010/UBTVQH12 có nhiều yếu tố cần được xem xét, đánh giá rút kinh nghiệm, cụ thể: TMĐT tăng thêm so với TMĐT tại Nghị quyết số 881/2010/NQ-UBTVQH12 do yếu tố trượt giá là 74.056,5 tỷ đồng, tăng khoảng 14%, mặc dù thấp hơn so với chỉ số giá tiêu dùng CPI trong 3 năm (CPI giai đoạn 2010 - 2012 khoảng 37,14%). Vì vậy, việc điều chỉnh do yếu tố giá ở nhiều công trình là hợp lý. Tuy nhiên, nếu so với quy định hiện hành về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình thì những công trình thực hiện trên 2 năm đều được tính chi phí dự phòng cho yếu tố trượt giá trong suốt thời gian thực hiện dự án. Mặt khác, nếu đối chiếu với từng dự án cụ thể, có nhiều công trình, dự án điều chỉnh TMĐT do tăng giá vượt xa so với tốc độ tăng giá CPI trong 3 năm 2010 - 2012, có dự án điều chỉnh tăng giá lên nhiều lần là không hợp lý và thực chất là tăng quy mô của dự án. TMĐT tăng thêm do xử lý kỹ thuật là 28.845,3 tỷ đồng, trong đó có những yếu tố hợp lý, song nhiều dự án điều chỉnh tăng quá cao, có dự án điều chỉnh do xử lý kỹ thuật gần bằng với TMĐT ban đầu là không hợp lý. TMĐT tăng thêm do tăng quy mô dự án 42.074,6 tỷ đồng là không phù hợp với Nghị quyết số 881/NQ-UBTVQH12 của UBTVQH.
XUÂN DŨNG