QĐND - Lịch sử Tiểu đoàn xe tăng 198-đơn vị tham gia trận đánh Tà Mây-Làng Vây, mở ra truyền thống “đã ra quân là đánh thắng” của Binh chủng Tăng-Thiết giáp anh hùng, được ghi lại chân thực và khá đặc biệt qua hai tập nhật ký bằng thơ của Thiếu úy, liệt sĩ Bùi Minh Can, Chính trị viên Đại đội 9, Tiểu đoàn xe tăng 198.

Bùi Minh Can quê ở xã Toàn Thắng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Hưng (cũ). Học hết lớp 10, anh không thi đại học mà xung phong nhập ngũ, gia nhập binh chủng “thép” rồi vinh dự là những người đầu tiên đưa xe tăng vào chiến trường Quảng Trị.

 Một trang trong tập thơ “Đường đi chiến thắng” của Bùi Minh Can.

Ngày 14-10-1967, Bùi Minh Can cùng Tiểu đoàn xe tăng 198 xuất phát từ Lương Sơn (Hòa Bình) bí mật hành quân bằng xích vào chiến trường. Cuộc hành quân chủ yếu được thực hiện vào ban đêm. Để giữ bí mật, các xe tuyệt đối không được bật đèn pha mà phải sử dụng đèn gầm có lắp thêm thiết bị hạn chế ánh sáng. Những đêm mù sương, các đồng chí trưởng xe phải đi bộ trước mũi xe, khoác vải trắng dẫn đường. Các kíp xe phải dùng cành cây tươi che bớt bụi lửa phóng ra từ ống xả, khi lá héo khô phải kịp thời thay cành cây mới. Khi dừng nghỉ nấu ăn phải đào bếp Hoàng Cầm. Do hành quân đường dài nên bánh đỡ nặng và xích xe bị hư hỏng nhiều. Đơn vị phải khắc phục bằng cách đảo xích bên phải sang trái và ngược lại, lắp xen kẽ mảnh xích lành với mảnh xích hỏng để tiếp tục hành quân... Sau hơn 50 ngày đêm, vượt hơn 1000km đường qua nhiều địa hình phức tạp, dưới mưa bom, bão đạn của quân thù, toàn tiểu đoàn đến vị trí tập kết với 100% trang bị chiến đấu. Những kỷ niệm đó đã đi vào nhật ký của Bùi Minh Can. Trong một trang không đề rõ ngày (để giữ bí mật), cuốn thơ “Tiến lên phía trước”, anh ghi: “Cuộc trường chinh hơn ngàn cây số với tank Việt Nam, vượt Trường Sơn trùng điệp, hiểm trở, một kỳ công có một không hai trong lịch sử này phải đâu là chuyện giản đơn. Khó khăn, gian khổ từng giờ từng phút đến với anh, song anh rất tự hào là mình được thử thách, tôi rèn trong lửa đỏ mà tiến lên.... Đây Lò Roàng, A Ki, Tà Lê rực lửa”.

Là cán bộ chính trị, những dòng nhật ký của Bùi Minh Can cũng thể hiện rất nhiều hoạt động CTĐ, CTCT của anh và chi bộ đã làm trên đường hành quân. Trong một trang nhật ký đã bị mờ do thời gian, đoạn còn đọc rõ đã khẳng định điều đó. Đoạn này, Bùi Minh Can ghi lại chân thực sự giúp đỡ, chia sẻ lẫn nhau của chiến sĩ xe tăng trong những ngày vượt Trường Sơn vào Khe Sanh quyết chiến với quân thù: “... Giúp nhau cân gạo/Nhường nhau bát cháo/Giúp nhau manh áo/Nâng giấc lúc đau”. Hay trong những thời khắc thử lửa, một số đồng đội có ý nghĩ thoái lui trước khó khăn quá khắc nghiệt, Bùi Minh Can đã làm thơ khuyên đồng đội: “Ta nghĩ sao đây, tính sao đây/Để chậm một giây, phí một giây/Xả thân cứu nước vượt gian khó/Thử lửa vàng than phen này đây”.

Cán bộ Bảo tàng Tăng-Thiết giáp giới thiệu tập thơ với khách tham quan. 

Ở tập thơ “Đường đi chiến thắng” ghi từ ngày 1-1-1968, Bùi Minh Can đã khẳng định ý chí thép của mình bằng lời đề từ ngay trang đầu: “Gian khổ, hy sinh ta chẳng sợ gì/Trường giông tố là tập thơ bất tận/Cả đời ta vì nhân dân cách mạng/“Thép” với thơ xung trận lập công đầu”. Trong tập nhật ký bằng thơ này, Bùi Minh Can có hàng chục bài thơ ca ngợi chiến công của bộ đội xe tăng, ca ngợi chất “thép” trong cuộc sống đời thường đầy gian khổ của người chiến sĩ trên chiến trường. Ngay sau chiến thắng Tà Mây-Làng Vây, Bùi Minh Can đã viết bài “Có các anh bắc nhịp cầu vàng”, giọng thơ anh đầy hào sảng: “Xuân chiến thắng như hoa đào nở rộ/Anh lính xe tăng ơi, anh bước vào xuân đó/Lòng rộn ràng, hăm hở, vui tươi/Ngực căng tràn sức trẻ tuổi đôi mươi/Anh nằm mơ thấy mình thành dũng sĩ... Nhịp cầu vàng Chiến thắng làng Vây/Tiếng còn vang khắp chốn đó đây/Cả nước hả lòng, quân thù khủng khiếp/Hãy xốc tới trên đường ta đi tiếp/Sức mạnh xe tăng, sức mạnh căm thù”.

Bên cạnh những dòng thơ cổ động ý chí chiến đấu, Chính trị viên Bùi Minh Can có rất nhiều bài thơ lãng mạn gửi cho một người con gái mà anh vẫn thường gọi là “cô gái 6 tấn” và cũng rất nhiều bài đề cập đến sự mất mát, hy sinh của đồng đội. Trong bài “Viếng tặng hai đồng chí Bí-Loan”, anh viết: “Ơi các đồng chí Bí-Loan thương mến!/Đạn quân thù cướp cuộc sống của anh/Ơi các bạn mến thương, trẻ, đẹp, hiền lành/Chúng tôi nhớ mối hận thù khắc cốt/Cuộc trường chinh tuy chưa về tới đích/Bao năm rồi ta đấu cật, chung lưng...”. Và dù, trong hoàn cảnh dễ làm người lính bi lụy ấy, Chính trị viên Bùi Minh Can vẫn vững vàng làm chỗ dựa tinh thần cho đồng đội. Ngay sau mỗi vần thơ tiếc thương đồng đội ngã xuống, anh thường có những đoạn thơ tự dặn lòng mình: “Mỹ dù đốt hết Trường Sơn/Nhưng sao ngăn được con đường ta đi/Khó khăn gian khổ sợ gì/Đời ta có Đảng bước đi vững vàng”.

Bùi Minh Can đã ngã xuống trên chiến trường chống Mỹ năm 1972, nhưng những vần thơ của anh đã đi theo các vệt xích xe tăng đến tận ngày toàn thắng. Từ khi anh hy sinh đến ngày 30-4-1975 là một chặng đường chiến đấu đầy gian lao của dân tộc, nhưng anh đã cảm nhận và tin tưởng vào chiến thắng đó, thể hiện trong những vần thơ gần như cuối cùng trong tập thơ của mình. Ở bài “Đường đi chiến thắng”, anh viết: “Ánh điện sáng trưng/Lễ đài rực rỡ/Ôi lòng tôi dạt dào bao cảm nghĩ/Lễ xuất quân giục giã đáy lòng/Tôi nhìn cờ Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược/Nhìn cờ của Mặt trận dân tộc/Mà con tim hồi hộp biết chừng nào/Niềm tự hào và tin tưởng biết bao”.

Hiện nay, hai tập nhật ký bằng thơ của liệt sĩ Bùi Minh Can được bảo quản và trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Lực lượng Tăng-Thiết giáp. Các cựu chiến binh và du khách tham quan rất cảm động và đã viết nhiều cảm nhận xúc động về tập thơ này.

Bài và ảnh: HƯƠNG SEN