QĐND - Năm 2012 đã được cảnh báo từ trước như là một trong những năm khó khăn nhất của kinh tế Việt Nam và thế giới. Những tháng đầu năm, thực tế đã diễn ra đúng như dự báo. Bằng các giải pháp đồng bộ, quyết liệt, kinh tế Việt Nam bước đầu đã vượt qua khó khăn, có những tín hiệu rất đáng phấn khởi, nhưng thách thức phía trước vẫn còn nhiều. Nút thắt cần tháo gỡ lúc này là phải hạ lãi suất cho vay…
Những mảng sáng trong bức tranh kinh tế
Thực tế Việt Nam 3 tháng đầu năm 2012 cho thấy những tín hiệu khả quan nhất định về kiềm chế lạm phát (so với tháng trước, CPI tháng 1-2012 đã tăng 1% và tháng 2-2012 tăng 1,37% - tức bằng mức cùng kỳ năm 2009, nhưng là mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua, tháng 3-2012 CPI chỉ tăng 0,16% là mức tăng thấp nhất trong vòng gần 2 năm qua, tăng 2,55%; so với tháng 12-2011 và tăng 14,15% so với cùng kỳ năm trước). Như vậy, CPI bình quân quý I-2012 thấp xa so với tốc độ tăng bình quân quý I trong 8 năm trước. CPI tháng 3-2012 là tháng thứ 7 liên tiếp tăng chậm lại so với tháng 12-2010. Điểm mới tích cực nữa là CPI lương thực sau Tết Nguyên đán giảm nhẹ (0,41%), cước bưu chính viễn thông tiếp tục xu hướng liên tục giảm (0,16%).
 |
Xuất nhập khẩu hàng hóa qua cảng Cát Lái (Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn). Ảnh: Trọng Thiết
|
Thực tế những tháng đầu năm đang cho thấy, khả năng hiện thực hóa mục tiêu kiềm chế lạm phát năm 2012 xuống 1 con số được xác lập bởi những nhân tố tích cực như: Nhận thức và quyết tâm chính trị mới từ cấp cao nhất; sự nhất quán chính sách tài chính-tiền tệ linh hoạt và thận trọng, theo hướng tiếp tục thắt chặt, giảm bớt khối lượng và nâng cao hiệu quả đầu tư công; xúc tiến đổi mới mô hình và cơ chế phát triển; sự dồi dào của các nguồn hàng hóa và lao động; sự năng động và bản lĩnh thương trường của đội ngũ doanh nghiệp; vị thế quốc tế và lòng tin của thế giới đối với tiềm năng phát triển trung và dài hạn của Việt Nam ngày càng được củng cố...
Nhập siêu 3 tháng đầu năm chỉ bằng khoảng 1,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, mức thấp hơn nhiều so với cùng kỳ nhiều năm gần đây.
Ba tháng đầu năm nay, chúng ta đã tổ chức đấu thầu trái phiếu Chính phủ với kết quả khả quan hơn nhiều so với năm trước (đấu thầu thành công tới 5.900/7000 tỷ đồng, phiên ngày 16-2-2012 và trong quý I-2012 đã phát hành được hơn 9000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ).
Một số ngành công nghiệp có sự tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ như sản xuất điện tăng 15,1%, khai thác dầu thô tăng 10,3%... Những dấu hiệu cải thiện về tính thanh khoản ngân hàng và dự trữ ngoại hối cũng được ghi nhận.
Những khoảng tối đáng ngại
Bên cạnh những mảng sáng, trong bức tranh kinh tế Việt Nam từ đầu năm đến nay cũng đã xuất hiện những mảng tối đáng lo ngại. Nổi bật là ở khu vực doanh nghiệp trong nước, với con số ngày càng nhiều doanh nghiệp dừng hoạt động, thua lỗ, phá sản, nợ nần chồng chất, không nộp thuế và thu hẹp sản xuất - kinh doanh do lãi suất vốn vay cao, hàng tồn kho lớn, thị trường xuất khẩu khó khăn trong khi sức mua và thị phần trong nước thu hẹp...
Theo Tổng cục Thống kê, GDP quý I của cả nước chỉ đạt khoảng 4%, thấp hơn so cùng kỳ nhiều năm trước (năm 2011, GDP của Việt Nam tăng 5,89% so với năm 2010, trong đó quý I tăng 5,57%; quý II tăng 5,68%; quý III tăng 6,07% và quý IV tăng 6,10%). Điều đáng ngại là mức tăng GDP công nghiệp quá thấp (2,94%), chỉ xấp xỉ mức tăng của nông nghiệp (2,84%) và chỉ nhỉnh hơn chút ít 1/2 mức tăng của dịch vụ (5,31%). Chỉ số công nghiệp cộng dồn so với cùng kỳ từ tháng 7-2011 đến tháng 3-2012 đi xuống một cách đều đặn, trong đó nhiều ngành có tỷ trọng đóng góp trong tổng giá trị sản xuất cao thì lại tăng trưởng âm. Một số nhóm hàng chủ lực trong kim ngạch xuất khẩu như dệt may, giày dép và có độ phụ thuộc cao vào nguyên vật liệu nhập ngoại... thì nhập khẩu các nguyên vật liệu đầu vào của nhóm hàng này trong các tháng đầu năm 2012 giảm mạnh cho thấy khó khăn trong tìm kiếm thị trường xuất khẩu thời gian tới.
 |
Biểu đồ mức tăng bình quân CPI quý 1 hằng năm giai đoạn 2004-2012
|
Chỉ số tồn kho của toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hiện đã tăng 17,4% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, các ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là chế biến và bảo quản rau quả (tăng 80,6%); sản xuất phân bón và hợp chất ni-tơ (tăng 71,9%); sản xuất xi măng, vôi, vữa (tăng 68,1%); sản xuất sắt, thép (tăng 53,4%)…
Theo số liệu thống kê, đến ngày 21-3-2012, cả nước có số doanh nghiệp đăng ký mới giảm 8% về lượng, 12% về vốn đăng ký so với cùng kỳ, tương ứng đạt hơn 15,3 nghìn doanh nghiệp và 74,6 nghìn tỷ đồng. Nhưng có hơn 2,2 nghìn doanh nghiệp giải thể và hơn 9,7 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động có thời hạn hoặc dừng thực hiện nghĩa vụ thuế, tăng khoảng 6% so với cùng kỳ năm trước. Riêng doanh nghiệp đã hoàn tất thủ tục giải thể tăng 57%.
Mối lo phá sản gia tăng ở mọi ngành và doanh nghiệp, nhất là trong ngành kinh doanh bất động sản, ngành thép, ngành chế biến thủy sản. Không ít doanh nghiệp chuyển sang “buôn chuyến”, từ sản xuất chuyển qua làm thương mại, nhập hàng bán ở nội địa, lấy ngắn nuôi dài, hoạt động cầm chừng nuôi nhân sự; không còn tâm trí và năng lượng thúc đẩy tái cấu trúc theo chiều sâu như kêu gọi của Chính phủ và đòi hỏi của thực tiễn cạnh tranh thị trường ngày càng gay gắt…
Theo nhiều dự báo, đến cuối quý II-2012, làn sóng doanh nghiệp trong nước phá sản, dừng hoạt động và không nộp thuế sẽ tiếp tục gia tăng vì không có đơn hàng hoặc không chịu nổi chi phí vốn cao trực tiếp và gián tiếp làm tăng áp lực thất nghiệp và an sinh xã hội, giảm thu nhập, giảm sức mua thị trường và căng thẳng cân đối ngân sách Nhà nước như một vòng xoáy lặp lại với mức độ ngày càng cao.
Cần sớm hạ lãi suất cho vay
Nếu như giảm dần tốc độ tăng trưởng kinh tế như là kết quả một phần bởi sự chủ động của Chính phủ trong nhận thức và thực hiện chính sách tài chính-tiền tệ thắt chặt để ưu tiên kiềm chế lạm phát, thì hạ lãi suất với tư cách là giải pháp hàng đầu tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp dường như vẫn đang bị thực hiện có tính hình thức, thậm chí "đánh trống bỏ dùi”...
 |
Lực lượng thi công cơ giới của Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn (Bộ Quốc phòng) trên công trình xây dựng Quốc lộ 3. Ảnh: Xuân Khoa
|
Theo yêu cầu của Chính phủ, việc thực hiện lộ trình giảm lãi suất cần có cơ sở khách quan, không duy ý chí, việc và cần bảo đảm hài hòa tất cả các mặt lợi ích, nhất là cần bảo đảm hạ lãi suất cho vay trên thực tế, từ đó giúp doanh nghiệp bớt khó khăn trong tiếp cận vốn ngân hàng.
Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), năm 2012 NHNN sẽ có chính sách phát hành các tín phiếu ngân hàng với mức lãi suất hợp lý để thu hút các nguồn vốn dư thừa trong xã hội; phối hợp nhịp nhàng nhiều công cụ để bảo đảm tính thanh khoản của ngân hàng, bảo đảm mặt bằng lãi suất phù hợp, nhưng vẫn kiểm soát được dòng tiền dư thừa, không gây áp lực lên lạm phát; NHNN cũng không chủ trương hạ lãi suất để cứu các “đại gia” chứng khoán hay bất động sản.
Tuy nhiên, cần chú ý rằng, để thực hiện đúng nguyên tắc cạnh tranh đầy đủ trong hoạt động tín dụng với các điều kiện lành mạnh và chuẩn hóa khác cả về phía các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp, cũng như quản lý nhà nước, thì không cần bất kỳ trần lãi suất nào, cả huy động lẫn cho vay tín dụng. Đồng thời, để an toàn và hợp lý nhất, thì quá trình dỡ bỏ trần lãi suất phải được thực hiện đúng lúc, khi các điều kiện đã chín muồi và theo trình tự: Dỡ bỏ trần lãi suất huy động trước khi dỡ bỏ trần lãi suất cho vay; nói cách khác, cần lựa chọn lộ trình dỡ bỏ trần lãi suất sao cho đạt được nhiều mục tiêu hài hòa nhất, vì lợi ích của doanh nghiệp và nền kinh tế chung. Việc tái lập và duy trì trần lãi suất cho vay và triển khai các biện pháp đồng bộ khác để bảo vệ các doanh nghiệp và duy trì năng lực, cũng như sự bình ổn lành mạnh thị trường tài chính và nền sản xuất xã hội đang trở nên hiện hữu, cấp thiết hơn.
Tóm lại, cần điều hành mềm dẻo có nguyên tắc để từng bước tiến tới dỡ bỏ hoàn toàn cả hai loại trần lãi suất là việc cần làm và làm tốt hơn trong hoạt động ngân hàng, đáp ứng yêu cầu kiềm chế lạm phát, hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó, duy trì động lực tăng trưởng và tái cấu trúc đi đôi với bình ổn kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội của Chính phủ đã nêu.../.
TS Nguyễn Minh Phong