QĐND Online – Trong những buổi thảo luận ở tổ và hội trường, có không ít đại biểu khi trao đổi xung quanh vấn đề tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm cũng như một số giải pháp cho 6 tháng cuối năm đã nêu ý kiến liên quan đến hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, trong đó nổi bật là vấn đề xuất nhập khẩu, nhập siêu và vấn đề thủy điện. Sáng 6-8, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng đã trao đổi và cung cấp thông tin thêm cho Quốc hội về những vấn đề này…
Sự cần thiết của nhập siêu
Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng cho biết: nhiều năm nay, Việt Nam luôn là một nước nhập siêu. Đặc biệt là từ năm 2005 trở lại đây và năm 2007, khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, tình hình nhập siêu có những biến động mạnh. Đây là vấn đề được Chính phủ, các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm trong chỉ đạo, điều hành và trong thực hiện các chủ trương chính sách để khắc phục tình trạng này.
Tuy nhiên, nhập siêu ở Việt Nam có một số đặc thù:
Thứ nhất, với bối cảnh chúng ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng rất nhiều công trình hạ tầng; công trình thiết yếu cho nền kinh tế; các công trình năng lượng; công trình hóa chất; công trình về giao thông, trong nước lại chưa sản xuất, hoặc sản xuất chưa đủ được các máy móc, thiết bị, kể cả nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và cho chế biến hàng xuất khẩu do vậy, chúng ta vẫn buộc phải nhập khẩu. Việc nhập khẩu này là nhập khẩu cần thiết. Cơ cấu nhập khẩu thể hiện rõ điều này. Hiện nay, trong cơ cấu hàng nhập khẩu, 93% là nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên, vật liệu, những thứ hết sức cần thiết, còn hàng tiêu dùng chiếm chưa đến 7%.
 |
Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng. Ảnh: Internet |
Như vậy, việc nhập siêu, nhập khẩu của Việt Nam là sự cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, các tổ chức thế giới đánh giá rằng, với những nước có trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay, đang công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mức độ nhập siêu có thể chấp nhận được vào khoảng độ 20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế của Việt Nam còn nhiều khiếm khuyết. Vấn đề này Quốc hội cũng đã nhiều lần nêu, Chính phủ cũng chỉ đạo tích cực để trong thời gian tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó có cơ cấu hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, vấn đề này không phải ngày một, ngày hai có thể làm được, đất nước cần phải có thời gian, vốn, chi phí và phải có trình độ công nghệ thì mới có thể đáp ứng được chất lượng và cạnh tranh được với sản phẩm thế giới.
Thứ ba, trong một bộ phận người tiêu dùng Việt Nam, vẫn có tâm lý chuộng hàng ngoại. Việt Nam có lẽ là nước thu nhập thấp, nhưng sử dụng ô tô sang nhất, điện thoại sang nhất... Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến nhập khẩu.
Trong 5 năm vừa qua, Chính phủ chỉ đạo quyết liệt và được sự ủng hộ các cấp, các ngành, chúng ta đã có nhiều bước tiến trong kiểm soát nhập khẩu. Cụ thể:
Năm 2007, Việt Nam có tỷ lệ nhập siêu là 30% trên tổng kim ngạch xuất khẩu với con số tuyệt đối là 18 tỷ đô la.
Năm 2008, nhập siêu hạ xuống còn 26,5% trên tổng kim ngạch xuất khẩu và con số tuyệt đối là 14 tỷ đô la.
Năm 2009, tiếp tục giảm, xuống mức 22,5% trên tổng kim ngạch xuất khẩu và con số tuyệt đối 12,9 tỷ đô la.
Năm 2010, nhận siêu còn 17,5% trên tổng kim ngạch xuất khẩu và con số tuyệt đối còn 12,6 tỷ đô la.
7 tháng đầu năm 2011, nhập siêu chỉ có 12,9% và con số tuyệt đối là 6,4 tỷ đô la.
Đây là những kết quả bước đầu của nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân.
Chỉ tiêu Quốc hội giao cho năm nay là 18%, Chính phủ phấn đấu yêu cầu chỉ 16%. Thực tế, 7 tháng Việt Nam nhập siêu 12,9%.
Sắp tới, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục triển khai một số biện pháp để khắc phục nhập siêu. Trước tiên là đẩy mạnh xuất khẩu. Thứ hai là tiếp tục đẩy mạnh sản xuất trong nước và thay thế hàng nhập khẩu. Vừa qua, chúng ta đã đưa được rất nhiều công trình vào. Đơn cử: về phân đạm, trong năm 2012 chúng ta có đầy đủ phân đạm cho nhu cầu sản xuất trong nước; đến năm 2015, 2016 chúng ta có đầy đủ sản phẩm xăng dầu cho sản xuất trong nước; đến năm 2015, trong nước có thể đáp ứng 50% xơ, sợi tổng hợp cho ngành công nghiệp dệt… Cũng tương tự như vậy với một số sản phẩm khác. Gần đây nhất, Việt Nam đã tổ chức ký hợp đồng để sản xuất động cơ phục vụ cho sản xuất ô tô và các công cụ công nghiệp khác.
Xu hướng đẩy mạnh sản xuất trong nước để thay thế nhập khẩu bước đầu cũng đang có tác dụng. Việt Nam đã hợp tác với Nhật Bản, Hàn Quốc để triển khai các khu công nghiệp hỗ trợ. Trong một vài năm tới, với sự phát triển của các khu công nghiệp phụ trợ này, tình hình nhập siêu của chúng ta về linh kiện, vật tư sẽ được hạn chế một phần.
Giải thích về sự băn khoăn của nhiều đại biểu về việc cấp hạn ngạch nhập khẩu, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng cho biết: “Theo cam kết khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, chỉ còn được giữ 4 mặt hàng cấp hạn ngạch nhập khẩu, đó là muối, đường ăn, thuốc lá nguyên liệu và trứng gia cầm. Chỉ với 4 loại sản phẩm này là chúng ta được phép dùng hạn ngạch để khống chế việc nhập khẩu. Còn lại các mặt hàng khác thì theo cam kết, chúng ta không được dùng hạn ngạch, nhưng được dùng biện pháp về thuế quan và các rào cản thương mại.
Vừa qua được sự chỉ đạo của Chính phủ, chúng ta cũng đã xây dựng được một số quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật. Ví dụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã ban hành những thông tư quy định về quy chuẩn đối với thực phẩm, đối với thịt gia súc, gia cầm khi nhập khẩu vào Việt Nam. Bộ Y tế cũng đã bước đầu ban hành những quy định đối với những mặt hàng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Bộ Công thương ban hành những quy định về nhập khẩu ô tô; tại các cửa khẩu, nhập khẩu hàng tiêu dùng theo Thông tư 176 để khống chế việc nhập khẩu những hàng tiêu dùng không cần thiết. Đã quy định chỉ có 3 cảng được nhập khẩu điện thoại di động, mỹ phẩm”.
Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng mong muốn: “Các đại biểu Quốc hội ủng hộ cho Chính phủ và các cấp, các ngành thực hiện những biện pháp này. Đồng thời tăng cường tuyên truyền để người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, nhất là những hàng xa xỉ không cần thiết”.
Tích cực trong quản lý thủy điện
Trong thời gian từ năm 2009 đến nay, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và cũng là cam kết trước Quốc hội, Bộ Công thương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường, cùng các địa phương đã tiến hành việc kiểm tra, rà soát lại quy hoạch các nhà máy thủy điện, nhất là các nhà máy thủy điện nhỏ. Kết quả cho đến nay, riêng Bộ Công thương đã đình chỉ 38 dự án thủy điện nhỏ không có hiệu quả hoặc có thể gây ảnh hưởng môi trường lớn. Các địa phương cũng có quyết định đình chỉ nhiều dự án thủy điện khác.
Trong thời gian vừa qua, nhất là từ cuối năm 2010, Chính phủ đã ban hành 5 quy trình vận hành liên hồ chứa theo đề xuất của Bộ Tài nguyên và môi trường. Cụ thể là vận hành liên hồ Sơn La - Hòa Bình, Thác Bà - Tuyên Quang bằng Quyết định 198 ngày 1 - 2 - 2011.
Về thủy điện Đồng Nai 6, Đồng Nai 6A hiện đang trong giai đoạn xem xét dự án, theo quy định thì thủy điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A có sử dụng một phần diện tích chiếm đất của vườn quốc gia Cát Tiên, tính toán khoảng 137,5ha sau khi đã điều chỉnh. Căn cứ vào tình hình cụ thể, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn xem xét đánh giá lại việc điều chỉnh vườn quốc gia Cát Tiên nếu như thấy rằng diện tích chiếm đất của hai thủy điện này lớn thì cần phải báo cáo với Thủ tướng Chính phủ xem xét và đánh giá lại hiệu quả công trình.
Theo Nghị quyết 49 của Quốc hội, nếu chuyển mục đích sử dụng từ 50ha trở lên đối với đất rừng đặc dụng hoặc vườn quốc gia thì phải báo cáo với Quốc hội thuộc tiêu chí công trình quan trọng quốc gia. Hiện nay đang xem xét và sẽ báo cáo với Quốc hội để xin chủ trương, hiện nay chưa phê duyệt dự án.
Xuân Dũng