QĐND - Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Ngành Ngoại giao Việt Nam (28-8-1945/28-8-2015), Báo Quân đội nhân dân xin trích đăng bài viết của Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh về quá trình hình thành, phát triển, những thành tựu đã đạt được và phương hướng phát triển của ngành ngoại giao trong thời gian tới.
Đúng 70 năm trước, trong không khí cách mạng sục sôi của mùa thu tháng Tám, Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 28-8-1945 thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã chính thức khai sinh ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Ngành ngoại giao tự hào được đặt dưới sự lãnh đạo, dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Bộ trưởng đầu tiên của ngành. Vinh dự lớn lao này cho thấy ngay từ buổi đầu lập nước, Đảng và Bác Hồ đã hết sức coi trọng vai trò của công tác đối ngoại với tư cách là một vũ khí quan trọng để bảo vệ lợi ích dân tộc. Người từng nói: “Dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu, thứ hai là đánh bằng ngoại giao, thứ ba mới đánh bằng binh”.
Những năm tháng không thể nào quên
Ngay từ thuở ban đầu phải đối mặt với nhiều thù trong giặc ngoài, bằng Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946, ngoại giao đã góp phần quan trọng bảo vệ thành công chính quyền cách mạng non trẻ với việc thực hiện sách lược “hòa để tiến”, phân hóa kẻ thù, tranh thủ thêm thời gian củng cố lực lượng để chuẩn bị cho cuộc trường kỳ kháng chiến.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, ngoại giao Việt Nam đã thực sự trở thành một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Sự phối hợp chặt chẽ giữa ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đóng vai trò cầu nối giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, kể cả nhân dân các nước gây chiến, ngoại giao đã tranh thủ tối đa sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của các thế lực thực dân, đế quốc. Những chiến thắng vang dội trên chiến trường đã lần lượt được ngoại giao cụ thể hóa trên bàn đàm phán qua các Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, Hiệp định Pa-ri năm 1973, để từ đó dân tộc ta đi tới đại thắng mùa Xuân năm 1975, đưa núi sông liền một dải, thu giang sơn về một mối.
 |
| Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Ảnh: TTXVN. |
Trong sự nghiệp kiến thiết, xây dựng đất nước, nhất là trong công cuộc Đổi Mới, ngoại giao đã góp phần phá bao vây, cấm vận, chủ động triển khai đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, nỗ lực duy trì môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện đúng mong muốn “sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ” mà Bác Hồ luôn tâm niệm ngay từ những ngày đầu lập nước, Việt Nam ngày nay đã thực sự “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị và chỉ có quan hệ với các nước trong phe Xã hội chủ nghĩa, đến nay nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc (LHQ), có quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và nhiều cơ quan quan trọng của LHQ.
Cùng với các mặt trận khác, ngoại giao đã góp phần đưa Việt Nam từ một đất nước không có tên trên bản đồ thế giới đến vị thế đàng hoàng của một quốc gia đóng vai trò ngày càng lớn ở khu vực, được bạn bè quốc tế nể trọng.
Ngoại giao Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện
Trong một thế giới toàn cầu hóa với sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các quốc gia, hội nhập quốc tế đã trở thành sự lựa chọn khách quan và tất yếu. Như người “hoa tiêu” góp phần đưa con tàu Việt Nam tiến ra biển lớn, ngoại giao Việt Nam đã xác định đúng, bám sát dòng chảy của thời đại, luôn nỗ lực hết sức mình để định vị đất nước một cách có lợi nhất trong cục diện khu vực và thế giới.
Trước hết, chúng ta đã đẩy mạnh việc đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu thực chất, cơ bản hoàn tất việc thể chế hóa khuôn khổ quan hệ với các đối tác ưu tiên, quan trọng. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử đối ngoại 70 năm qua, chúng ta đã xây dựng được khuôn khổ quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ.
Thứ hai, ngoại giao luôn đi đầu trong việc triển khai chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện mà Đại hội Đảng XI đã đề ra. Ngoại giao đã tích cực đóng góp vào việc tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại: Lần đầu tiên sau hai thập kỷ, Việt Nam liên tục xuất siêu từ năm 2012 đến năm 2014, tiếp tục là điểm sáng ở Đông Nam Á trong việc thu hút đầu tư nước ngoài với sự có mặt của hơn 100 tập đoàn đa quốc gia hàng đầu trên thế giới, trong đó nhiều tập đoàn đã và sẽ đặt “đại bản doanh” tại Việt Nam. Lần đầu tiên, Việt Nam tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ, tiến hành đàm phán đồng thời nhiều Hiệp định thương mại tự do lớn như TPP và RCEP, được bạn bè quốc tế tín nhiệm bầu với số phiếu rất cao vào các cơ quan quan trọng của LHQ.
Thứ ba, ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Chúng ta đã hoàn thành phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên bộ với Trung Quốc và Lào, đang triển khai phân định biên giới với Cam-pu-chia, góp phần đưa đường biên giới trên bộ giữa Việt Nam với các nước láng giềng trở thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển. Ngoại giao cũng giành được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế đối với lập trường chính nghĩa và các lợi ích chính đáng của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông.
Thứ tư, công tác ngoại giao văn hóa, thông tin tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Chúng ta đã vận động thành công để UNESCO công nhận thành nhà Hồ, quần thể danh thắng Tràng An, châu bản triều Nguyễn, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, hát xoan Phú Thọ là di sản văn hóa thế giới. Trên mặt trận thông tin tuyên truyền, ngoại giao đã góp phần xây dựng đồng thuận và huy động sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân đối với các đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, quảng bá và nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế…
Toàn ngành ngoại giao luôn nhận thức rõ, những thành tựu đối ngoại quan trọng suốt 70 năm qua là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nỗ lực vượt bậc của tất cả các lực lượng làm công tác đối ngoại cũng như sự phối hợp hiệu quả, hỗ trợ tích cực của các bộ, ban, ngành và địa phương cả nước.
Nắm bắt cơ hội, hóa giải thách thức - vững bước hướng tới tương lai
Ngày nay, cục diện thế giới và khu vực đang không ngừng biến động. Chúng ta đang sống trong một thế giới có hòa bình, nhưng không hề yên bình. Châu Á-Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động nhất và có triển vọng trở thành trung tâm quyền lực mới của thế giới trong thế kỷ 21, song cũng đã trở thành địa bàn cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Hòa bình và hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng các nhân tố bất ổn, thậm chí nguy cơ xung đột cục bộ ngày càng nhiều. Đặc biệt, tình hình Biển Đông diễn biến rất phức tạp, các nguy cơ đe dọa an ninh, chủ quyền biển, đảo của đất nước nổi lên ngày càng gay gắt. Thách thức và cơ hội luôn đan xen, có tính chuyển hóa lẫn nhau. Làm sao “biến nguy thành an”, định vị đất nước như thế nào sao cho có lợi nhất trong bàn cờ chiến lược ở khu vực và trên thế giới là trăn trở đêm ngày của những người làm công tác đối ngoại.
Trước đây, Bác Hồ đã từng nói: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công”. Nhiệm vụ của ngoại giao ngày nay là phải lấy tư duy “trong nguy có cơ” để tìm ra thời cơ, vận hội của đất nước.
Là một quốc gia có vị trí địa - chiến lược quan trọng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong tình hình mới, tranh thủ các điều kiện thuận lợi nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước vượt qua nguy cơ “bẫy thu nhập trung bình”. Để làm được điều đó, đã đến lúc ngoại giao Việt Nam cần “dấn thân” hơn nữa.
Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28 (tháng 12-2013), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định ba nhiệm vụ đối ngoại quan trọng nhất trong thời gian tới là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa. Ba nhiệm vụ này mang tính biện chứng, tác động qua lại, và liên quan mật thiết đến nhau. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Trong thời bình, ngoại giao là lực lượng “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn lực cho phát triển đất nước”. Để thực hiện trọng trách lớn lao đó, toàn ngành ngoại giao đang nỗ lực đổi mới tư duy, tìm tòi sáng tạo hơn nữa từ lối tư duy đến cách làm nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác đối ngoại. Bám sát cái “bất biến” là lợi ích quốc gia, dân tộc để ứng xử “vạn biến” linh hoạt, thích ứng với một thế giới đang không ngừng thay đổi là yêu cầu bắt buộc đối với ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ mới...
Tiếp nối truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước, thế hệ cán bộ ngoại giao ngày nay quyết tâm làm hết sức mình, vượt qua mọi khó khăn, tận dụng mọi thời cơ để viết tiếp trang sử hào hùng của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, góp phần đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của độc lập, hòa bình và phát triển.
Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao PHẠM BÌNH MINH