QĐND Online – Ngày 11-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. "Năm năm là thành viên WTO, Việt Nam đã và sẽ ở đâu trong quá trình hội nhập" là câu hỏi được các chuyên gia kinh tế phân tích tại hội thảo cùng tên diễn ra sáng 29-2 tại Hà Nội.
Với những đổi mới trong thể chế, cải cách nền kinh tế mà từ một nền kinh tế với mức thu nhập bình quân thấp, Việt Nam đã trở thành một nước có nền kinh tế có mức thu nhập bình quân ở mức trung bình, giảm đáng kể tình trạng nghèo đói.
Việc gia nhập WTO năm 2007 đã mở ra cho Việt Nam những hướng phát triển mới. Cam kết WTO là cơ sở hình thành mối quan hệ song phương và khu vực ở mức độ tự do hóa cao hơn. Thực thi cam kết khi gia nhập WTO không chỉ là nghĩa vụ mà còn nhằm đảm bảo một nền kinh tế hoạt động một cách hiệu quả và cạnh tranh, theo đó tạo dựng tín nhiệm quốc tế đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
 |
Các chuyên gia kinh tế trao đổi tại hội thảo. Ảnh: Việt Cường. |
Theo TS Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM): “Sự tương tác giữa đổi mới, cải cách kinh tế trong nước và hội nhập WTO đã trở nên rõ ràng hơn với những thay đổi trong thể chế khi bộ máy nhà nước đã có những thay đổi nhất định (số lượng các bộ và cơ quan ngang bộ giảm từ 26 xuống còn 23); cải cách hành chính và cơ chế một cửa tiếp tục được thực hiện (chương trình đơn giản hóa các thủ tục hành chính một cách toàn diện giai đoạn 2007 – 2010; quyết định 93/2007/QD-TTg tháng 6-2007 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa)”.
Có thể thấy những đốm sáng trong đổi mới thể chế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO như sự ra đời nghị định 30 của Chính phủ về vấn đề giảm bớt 30% thủ tục. Việt Nam đã dần nhận biết rõ hơn thể chế thị trường và nền kinh tế thế giới, từ đó tìm cách ứng phó cơ động, linh hoạt hơn.
Năm năm đứng trong WTO, cải cách thể chế, hành chính ở Việt Nam đã có những điểm sáng mới, góp phần mở rộng thị trường, ứng phó với những biến động và hội nhập sâu vào thị trường thế giới. Tuy nhiên để quá trình gia nhập WTO đạt hiệu quả bền vững giúp Việt Nam có thể thoát được những cái bẫy của lao động chi phí thấp, bẫy tự do hóa thương mại đòi hỏi những nỗ lực lớn hơn nữa trong cải cách thể chế.
Theo TS Võ Trí Thành, chất lượng khung pháp lý và quy định ở Việt Nam còn thấp dẫn tới các cách hiểu khác nhau và các cách áp dụng tùy nghi. Thực thi luật pháp và quy định hầu như vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể nào. Các văn bản pháp lý của nhà nước được ban hành chậm và gây nhiều tranh cãi. Sự truyền tải thông tin thường không kịp thời và chưa được cập nhật. Thủ tục hành chính còn nặng nề, theo điều tra doanh nghiệp 2009, hiệu quả dịch vụ hành chính là một trong năm lĩnh vực bị đánh giá thấp nhất.
Những tồn tại lớn này đòi hỏi Việt Nam cần cải cách thể chế một cách rõ ràng hơn, toàn diện hơn nếu muốn hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và phát triển bền vững trong nền kinh tế nhiều biến động này.
Thu Thủy-Việt Cường