QĐND - Chính tư liệu của Trung Quốc đã chứng minh chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Trước tiên là của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Hải ngoại kỷ sự trong quyển 3 đã nói đến Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa và đã khẳng định Chúa Ngãi hay chúa trước Chúa Nguyễn Phúc Chu, đã thực thi chủ quyền của mình trên quần đảo này như sau:
“Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng bờ biển, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây Nam; động cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là “Vạn Lý Trường Sa”, mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước tấp vào dầu không tan nát cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quảng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm. Thời Quốc vương trước, hằng năm sai thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền lui tấp vào. Mùa thu nước dâng cạn, chảy rút về hướng Đông bị một ngọn sóng đưa thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm họa Trường Sa”.
 |
TS Nguyễn Nhã. Ảnh do nhân vật cung cấp |
Ngoài ra, các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Trung Quốc.
Khảo sát tất cả các bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả các bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa) hay bất cứ các đảo nào mà Trung Quốc suy diễn là Tây Sa và Nam Sa có nằm trong các bản đồ cổ ấy. Tất cả các bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực Nam của biên giới phía Nam của Trung Quốc. Chẳng hạn như đời Nguyên của Chu Tư Bản được vẽ thu nhỏ lại trong sách Quảng Dư đồ của La Hồng Tiên quyển 1, thực hiện năm 1561, phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Thiên hạ thống nhất chi đồ đời Minh trong Đại Minh nhất thống chí, năm 1461, quyển đầu, đã vẽ cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Hoàng Minh đại thống nhất tổng đồ đời Minh, trong Hoàng Minh chức phương địa đồ của Trần Tổ Thụ, năm 1635, quyển thượng đã vẽ phần cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Hoàng triều phủ sảnh, châu, huyện toàn đồ đời Thanh, khuyết danh, năm 1862, vẽ theo Nội phủ địa đồ gồm 26 mảnh mang tên Đại Thanh Trực Tỉnh Toàn Đồ" đã vẽ phần cực nam Trung Quốc là đảo Hải Nam. Quảng Đông tỉnh đồ trong Quảng Đông dư địa toàn đồ, do quan chức tỉnh Quảng Đông soạn năm 1897, có lời tựa của tổng đốc Trương Nhân Tuấn đều không thấy bất kỳ quần đảo nào ở biển Nam Trung Hoa. Đại Thanh đế quốc, trong tập Đại Thanh đế quốc toàn đồ do Thường Vụ An Thư Quán Thượng Hải, 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910, đã vẽ phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam.
Trong khi đó, một số tư liệu cổ mà Trung Quốc trưng ra để chứng minh sự phát hiện sớm của người Trung Quốc (mà thực ra chỉ là suy diễn không có cơ sở vững chắc để chứng minh chủ quyền của Trung Quốc) lại đều là các tài liệu viết về nước ngoài. Chư Phiên Chí của Triệu Nhữ Quát, đời Nam Tống (1225) có nhắc đến Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Đường ở Phiên Quốc, có nghĩa nước khác chứ không phải Trung Quốc. Tư liệu cổ Trung Quốc cũng dẫn của Khang Thái (đời Ngô Tam Quốc), Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (đời Ngô), Chư Phiên đồ đời Tống lại xác định giới hạn của Trung Quốc với các nước khác ở Giao Dương tức Giao Chỉ Dương. Giao Chỉ Dương hay biển Giao Chỉ lại là Vịnh Bắc Bộ trong khi Hoàng Sa, Trường Sa lại cách xa Vịnh Bắc Bộ… Như thế các tài liệu cổ trên đã gián tiếp chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa, không thuộc về Trung Quốc mà thuộc các nước khác mà Trung Quốc gọi là Phiên Quốc, hay Giao Châu, Nam Châu.
Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, bởi đồng tiền La Mã đã từng được phát hiện ở Óc Eo (An Giang), ở miền Nam Việt Nam nhưng không thể chứng minh rằng, Óc Eo (An Giang) thuộc chủ quyền La Mã. Các nhân viên khảo cổ Trung Quốc còn phát hiện được 14 ngôi miếu cô hồn và cho rằng, chúng có từ thời Minh Thanh. Trong các ngôi miếu cô hồn ấy lại có 2 ngôi miếu ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée) đã được nhóm Hàn Chấn Hoa biên chép lại từ bài báo “Từ quần đảo Tây Sa trở về” trên Hương Cảng, ngày 31 tháng 3 năm 1957, ghi rõ: Đại Công báo. “Trên đảo Vĩnh Hưng (thiên thứ 1, trang 115). Phú Lâm hiện nay có 2 ngôi miếu mà ngư dân tự xây dựng nên. Miếu mặt Nam gọi là “Cô hồn miếu”, miếu ở mặt Bắc gọi là “Hoàng Sa tự” (Hàn Chấn Hoa, Lâm Kim Chi, Ngô Phượng Bân, Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hội biên).
“Hoàng Sa tự” là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam mà các vua chúa Việt Nam, trong đó có thời Minh Mạng sai thủy quân ra Hoàng Sa xây dựng miếu, chùa.
Vào năm 1909, chính quyền Quảng Đông cho Paracels là đất vô chủ (res nullius) (mà đâu có vô chủ), bắt đầu tranh chấp chủ quyền, tổ chức chiếm hữu theo phương cách phương Tây: Cử chiến hạm tới bắn 21 phát súng đại bác, lên bờ cắm cờ chủ quyền, cũng là bằng chứng hiển nhiên Paracels tức Hoàng Sa của Việt Nam không bao giờ thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Và không biết bao tài liệu lịch sử khác chứng minh Paracels mà Trung Quốc gọi là Tây Sa trước năm 1909 chưa bao giờ thuộc chủ quyền của Trung Quốc mà lại thuộc chủ quyền của Việt Nam, tức Cát Vàng hay Hoàng Sa!
Tiến sĩ sử học HÃN NGUYÊN NGUYỄN NHÃ
Kỳ 2: Chứng cứ quốc tế và trong nước