QĐND - Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở chúng ta: Hai nguy cơ lớn đối với một đảng cầm quyền là nội bộ mất đoàn kết; Đảng viên tha hóa, quan liêu, xa rời quần chúng. Theo Người, một đảng chân chính là một đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân lao động, lợi ích của dân tộc và lợi ích của giai cấp lên trên hết và đảng chỉ có sức mạnh khi tập hợp được đông đảo quần chúng lao động xung quanh mình. Sức mạnh của quần chúng được ông cha ta ví “chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân”, “nước lấy dân là gốc”, bởi vậy, chính sách “khoan sức dân là kế sách bền lâu giữ nước” luôn được các triều đại phong kiến Việt Nam coi trọng.
Bác Hồ luôn dạy: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng, không có quần chúng thì không thể làm được, việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc thì khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt”. Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, “quan hệ giữa Đảng với nhân dân bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng”. Thực tiễn cho thấy, không có Đảng thì quần chúng không có người chỉ lối đưa đường và tổ chức hành động, ngược lại không có quần chúng thì Đảng không có sức mạnh. Muốn xây dựng Đảng vững mạnh tất yếu phải dựa vào dân, “nguồn gốc sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta chính là ở chỗ Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân”. (Văn kiện Đại hội VII).
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu có nhiều nguyên nhân, ngoài những nguyên nhân về đường lối cách mạng, về công tác xây dựng Đảng, lựa chọn và bố trí cán bộ v.v... thì còn có một nguyên nhân cực kỳ quan trọng là tệ quan liêu, xa rời quần chúng trong Đảng. Khi chủ nghĩa cơ hội được tiếp sức bởi kẻ thù bên ngoài phản công cách mạng thì Đảng không còn chỗ dựa ở quần chúng, không còn lực lượng nên dẫn tới tan rã và sụp đổ hoàn toàn. Như vậy, diễn biến hòa bình đạt được ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu có nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ ngay trong nội bộ Đảng. Cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói “quần chúng quan niệm về Đảng thông qua những đảng viên cụ thể ở nơi làm việc và trong khu dân cư. Không có Đảng trìu tượng vô hình, nằm ngoài con mắt của quần chúng”. (Diễn văn kỷ niệm 60 năm thành lập Đảng 3-2-1990).
Khi cách mạng còn trong trứng nước, Bác đã dặn “có dân là có tất cả”, bởi vậy nên trong Cách mạng Tháng Tám Đảng ta chỉ có 5000 đảng viên nhưng đã biết phát huy sức mạnh dời non, lấp bể của khối đại đoàn kết dân tộc đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam. Trải qua các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, sức mạnh toàn dân tộc được nhân lên gấp bội, toàn dân đoàn kết quanh Đảng tạo thành sức mạnh vô địch đè bẹp mọi bạo lực hung hãn nhất của thời đại. Sở dĩ như vậy là vì mục tiêu cách mạng, đường lối, chính sách của Đảng chính là ý nguyện của dân; cán bộ đảng viên thật sự là những người cùng lăn lộn, sống chết, đồng cam cộng khổ với dân. Đại hội lần thứ XI của Đảng mới đây diễn ra trong một thời điểm khá đặc biệt, đó là giai đoạn hậu suy thoái kinh tế toàn cầu, tình hình kinh tế-xã hội trong nước còn nhiều khó khăn. Thế nhưng, đây lại là một trong những đại hội nhận được số lượng ý kiến đóng góp cho Dự thảo các văn kiện nhiều nhất với hàng trăm nghìn ý kiến tâm huyết của mọi tầng lớp nhân dân với Đảng. Điều đó thể hiện niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tuy nhiên, chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, hiện nay không ít cán bộ đảng viên và tổ chức đảng, chính quyền các cấp đã không thực sự gần dân. Nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội chưa đặt lợi ích của người dân lên trên hết; tình trạng đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước không đến được hoặc đến rất chậm với đồng bào các dân tộc; đời sống của một bộ phận không nhỏ nhân dân còn gặp không ít khó khăn. Nhiều thôn, bản xa xôi, hẻo lánh ở khu vực biên giới hầu như chưa có hệ thống điện-đường-trường-trạm; số người mù chữ, trẻ em thất học ở một số nơi còn chiếm tỷ lệ cao. Nhiều nơi “đói” thông tin, các tập tục lạc hậu tồn tại cùng các tệ nạn xã hội. Đây cũng chính là mảnh đất để các thế lực thù địch luôn lợi dụng, xuyên tạc, chống phá đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở còn không ít người quan liêu, xa rời quần chúng, chưa thực sự quan tâm đến đời sống mọi mặt của nhân dân, thậm chí còn biểu hiện "vô cảm" trước nỗi vất vả, khó khăn, thiếu thốn của người dân.
Quan liêu nên mới xa dân, xa dân nên mới sinh ra quan liêu. Nguyên nhân của căn bệnh này được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đối với nhân dân chỉ biết dùng mệnh lệnh, không biết giải thích tuyên truyền, không biết làm cho dân chúng tự giác, tự động. Đối với công việc chỉ biết khai hội, viết nghị quyết, ra chỉ thị chứ không biết điều tra, nghiên cứu, đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích, kiểm tra... Đối với mình không lo phụng sự nhân dân mà chỉ muốn nhân dân phụng sự mình...” (Báo Sự Thật, 2-9-1950).
Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cần gần gũi và hiểu tâm tư nguyện vọng của dân, mọi chủ trương phát triển kinh tế-xã hội trước hết phải được sự đồng thuận của người dân và phải vì lợi ích số đông người dân. Các dự án trước khi đưa ra phải nghĩ đến người dân, các chính sách kinh tế-xã hội phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, được công khai rộng rãi để người dân được biết và thực hiện. Cần mở rộng dân chủ xã hội, tẩy sạch “bệnh xa dân" trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện thật tốt lời dạy của Bác Hồ: “Việc gì có lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân thì phải hết sức tránh” (Báo Sự Thật, 2-9-1950). Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, trước hết chúng ta học tập và làm theo tinh thần “dĩ công vi thượng”, tác phong giản dị, gần gũi nhân dân, tư tưởng yêu nước, thương dân, trọng dân của Bác Hồ.
Lê Quý Hoàng