QĐND - Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI trình Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ tổng quát 5 năm tới, trong đó vấn đề xây dựng Đảng được đề cập rõ tại mục XV: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Trong mục XV của Dự thảo Báo cáo Chính trị cũng xác định rõ một nội dung quan trọng là: “Đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng”, theo đó cần “tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”.
Nhìn lại tiến trình lịch sử, chúng ta thấy, thời kỳ 1930-1945, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra sức tổ chức và rèn luyện lực lượng để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, có nhiều đảng phái chính trị lớn, nhỏ được thành lập, tự nhận là “quốc gia” hoặc “dân tộc chủ nghĩa”, muốn trở thành người cầm quyền, nhưng lại nương nhờ các thế lực ngoại xâm (thực dân Pháp, hoặc quân phiệt Nhật Bản), không có cương lĩnh, đường lối, không có hệ thống tổ chức và càng không quan tâm vận động quần chúng, nên rốt cuộc không thể làm gì được cho dân tộc và đều tự tan rã trước những biến chuyển của thời cuộc.
Lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền như một tất yếu lịch sử và tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, hy sinh trong suốt 30 năm kháng chiến, vì độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Nhân dân ta đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng, làm cách mạng, xây dựng chính quyền…, do vậy, vai trò cầm quyền của Đảng chính là sự giao phó của nhân dân.
Tiến hành xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện một nhiệm vụ hết sức khó khăn; đó là một sự nghiệp vĩ đại, một quá trình lâu dài, gồm nhiều bước khác nhau, đòi hỏi Đảng phải có năng lực cầm quyền, biểu hiện tập trung ở trí tuệ và nghệ thuật cầm quyền. Tôi xin góp ý một số nội dung nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
 |
Ảnh minh họa. Nguồn: tuyengiao.vn. |
Thứ nhất, trí tuệ cầm quyền của Đảng biểu hiện tập trung nhất ở việc xác định quan điểm, chủ trương, đường lối, được thể chế hoá thành luật và những quy định phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử và lợi ích của dân tộc.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều được thể chế hoá thành luật pháp của Nhà nước. Đây là yếu tố thuận lợi cho sự lãnh đạo của Đảng, làm cho chủ trương, đường lối của Đảng nhanh đi vào thực tiễn, nhưng cũng chính nó lại tạo ra những nguy cơ lớn, vì nếu chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước không phù hợp với thực tiễn sẽ làm giảm sút lòng tin của nhân dân và tác động tiêu cực tới vai trò cầm quyền của Đảng và là “nguyên cớ” để các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng, Nhà nước, tuyên truyền xuyên tạc, gây tâm lý bất mãn trong quần chúng.
Một hiện tượng khá phổ biến hiện nay là không ít tổ chức Đảng và đảng viên cũng như quần chúng nhân dân còn thụ động, trông chờ vào việc xây dựng cương lĩnh, hoạch định đường lối, xác định chủ trương của cấp trên, nhất là cấp Trung ương. Ở đây có hai vấn đề đặt ra: Có những quyết định của cấp trên, không phải là vấn đề bí mật quốc gia, cũng không phải là vấn đề cấp bách, nhưng chưa tập hợp được ý kiến của đông đảo đảng viên và quần chúng nhân dân. Mặt khác, vai trò của các tổ chức Đảng, đảng viên và quần chúng nhân dân trong việc xác định chủ trương, đề ra các quyết định của tổ chức Đảng và chính quyền chưa được phát huy, hoặc nếu có ý kiến đóng góp cũng chưa được lắng nghe đầy đủ, chưa được xử lý và phúc đáp thấu đáo.
Tình hình trên tạo ra sức ỳ trong Đảng, không phát huy được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Hiện tượng cán bộ, đảng viên và quần chúng ít, hoặc không quan tâm đến việc hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là vấn đề đáng quan ngại trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, nhất là trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Điều đó không tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội, cũng là vấn đề dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước.
Để Đảng ta hoàn thành sứ mệnh cầm quyền, thực hiện quyền lực được nhân dân giao phó, xứng đáng được nhân dân và cả dân tộc coi là đảng của mình, việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là những quyết định cụ thể của các cấp chính quyền rất cần tăng cường lắng nghe ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Vậy làm thế nào để huy động được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước? Trước hết, phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ. Trong điều kiện công nghệ thông tin ngày càng phát triển, việc tập hợp các ý kiến của nhân dân rất thuận lợi, nhất là thông qua một trang mạng chính thức của Đảng và Nhà nước. Mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng đều có cơ hội bày tỏ quan điểm, phát biểu ý kiến của cá nhân qua một kênh thông tin tập trung riêng biệt, có một bộ phận chuyên phụ trách, tập hợp và xử lý. Các cấp ủy Đảng và chính quyền có điều kiện trao đổi, bàn luận, giải thích… trước khi ra quyết định chính thức. Một đường lối, chủ trương, chính sách đúng khi nhận được sự đồng thuận cao sẽ nhanh chóng đi vào thực tiễn, mang lại hiệu quả tích cực; ngược lại nếu có nội dung chưa đúng, hoặc chưa hoàn chỉnh cũng sẽ nhanh nhận được ý kiến phản hồi để kịp thời khắc phục, bổ sung và phát triển.
Thông qua hoạt động thực tiễn, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có thể góp ý thường xuyên cho các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, phải luôn quán triệt quan điểm “thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý”. Mọi quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng luôn xuất phát từ thực tiễn, đồng thời cũng không ngừng được bổ sung qua hoạt động thực tiễn. Thực tiễn “cao hơn” lý luận là như vậy.
Thứ hai, phát huy dân chủ là vấn đề quan trọng nhất trong nghệ thuật cầm quyền của Đảng, giúp Đảng hoàn thành trọng trách do nhân dân ủy thác.
Cầm quyền là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật. Trong phương thức cầm quyền của Đảng, điều cốt yếu và bền vững nhất là phát huy dân chủ. Một đảng chính trị chỉ có thể cầm quyền thành công khi thực sự phát huy dân chủ một cách toàn diện. Ở Việt Nam, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển xã hội. Dân chủ càng rộng thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng được củng cố, năng lực cầm quyền của Đảng càng được nâng cao. Theo Hồ Chí Minh, năng lực cầm quyền của Đảng không phải ở chỗ bắt nhân dân "thừa nhận quyền lãnh đạo của mình”, mà Đảng phải “tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Đảng ta ra đời là sản phẩm của phong trào cách mạng của nhân dân, vì thế Đảng không chỉ của riêng giai cấp công nhân, mà là của nhân dân, của dân tộc. Không chỉ có quyền lực của Nhà nước, mà quyền lực của Đảng là do dân giao phó. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng huấn thị: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...". Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát tổ chức Đảng và đảng viên thực hiện quyền do dân ủy thác.
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước của nhân dân, nên phải chuẩn bị đội ngũ nhân sự (kể cả đảng viên và những người ngoài Đảng) có đủ phẩm chất và năng lực để giới thiệu ra dân bầu vào các chức vụ chính quyền. Trong trường hợp phải chỉ định, thì chỉ nên coi là tạm thời và người ký quyết định phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình.
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”. Thực tiễn đó cho thấy, công tác cán bộ của Đảng còn những tồn tại, bất cập. Việc tuyển chọn, đề cử, bổ nhiệm cán bộ chủ yếu do tổ chức Đảng quyết định; việc thực hiện các quy trình đề bạt cán bộ ở một số nơi còn nặng về hình thức. Đó cũng là một “kẽ hở” dễ dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng.
Vấn đề dân chủ trong Đảng thời gian qua cũng bộc lộ những yếu kém, tồn tại. Tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình của một số tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể… bị suy yếu bởi những hiện tượng nể nang, bao che, xuê xoa, sợ mất lòng…, làm giảm chất lượng sinh hoạt Đảng, xói mòn lòng tin. Các nghị quyết, chủ trương của Đảng về chỉnh đốn Đảng chưa làm chuyển biến căn bản tình hình, mà một trong những nguyên nhân là chưa phát huy được vai trò của nhân dân trong việc giám sát và phản biện đối với hoạt động của Đảng.
Để Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh” cần dân chủ hóa mạnh mẽ quá trình hoạch định các chủ trương, chính sách của Đảng. Để làm được điều đó, cần một hệ thống tổ chức, bằng một kênh thông tin phổ dụng để hỏi và tiếp thu ý kiến nhân dân. “Thước đo” đánh giá hiệu quả nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng không phải là những biên bản, giấy tờ, mà chủ yếu là dư luận xã hội có bằng lòng hay không với những hoạt động tổ chức cán bộ, hoạch định đường lối, chủ trương, ra quyết định về những vấn đề lớn của các cấp ủy Đảng, chính quyền.
Một chính đảng cách mạng không phải không khi nào mắc sai lầm, khuyết điểm, mà quan trọng hơn là dũng cảm thừa nhận, tìm ra nguyên nhân và khắc phục sai lầm, khuyết điểm. Năng lực cầm quyền của Đảng hiện nay luôn được thử thách, “kiểm chứng” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy dân chủ, dựa vào nhân dân thực sự là biện pháp hiệu quả để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
PGS, TS VŨ QUANG HIỂN
(Đại học Quốc gia Hà Nội)