QĐND - Với âm mưu mở rộng chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, cùng với việc huy động lực lượng lớn không quân, hải quân đánh phá miền Bắc, đế quốc Mỹ đã tiến hành hai chiến dịch phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi, bom từ trường với số lượng lớn vào các năm 1967-1968 và 1972-1973. Quân chủng Hải quân cùng quân và dân miền Bắc đã dũng cảm, sáng tạo chiến đấu, rà phá gần 13.500 quả thủy lôi, bom từ trường, mở tuyến thông luồng, bảo đảm mạch máu giao thông phục vụ sản xuất và chi viện chiến trường...


Săn "tử thần" trên biển


Tại cuộc gặp mặt các nhân chứng, cựu chiến binh của Quân chủng Hải quân nhân kỷ niệm 40 năm (1973-2013) chiến công trong chống đế quốc Mỹ phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi và bom từ trường, có mặt những cán bộ, chiến sĩ Đội 8 công binh và Tiểu đoàn 1 công binh thuộc Trung đoàn 171 hải quân ngay từ những ngày đầu làm nhiệm vụ. Đại úy Trương Thế Hùng, nguyên Đội trưởng Đội 8 công binh Hải quân kể: “Trước những thất bại của đế quốc Mỹ trên chiến trường miền Nam, chúng điên cuồng đánh phá miền Bắc và phong tỏa sông, biển để ngăn chặn giao thông, gây khó khăn cho ta. Từ tháng 2-1967, Mỹ đã sử dụng máy bay của Không quân và Không quân Hải quân ồ ạt thả số lượng lớn thủy lôi và bom từ trường xuống hầu hết các cửa sông ở Khu 4, trọng điểm là 4 cửa sông lớn: Sông Mã (Thanh Hóa), sông Gianh, sông Nhật Lệ (Quảng Bình), Cửa Hội (Nghệ An) và 20 cửa sông khác ở miền Bắc, đặc biệt là khu vực cảng Hải Phòng, nhằm làm tê liệt các tuyến vận chuyển trên sông, biển của ta”.

Thủy lôi, bom, đạn của Mỹ đã gây cho quân và dân ta rất nhiều khó khăn, tổn thất. Đây là các loại vũ khí mới, hiện đại mà ta chưa biết chủng loại, nguyên lý hoạt động, vì vậy việc nghiên cứu, "hóa giải" những quả thủy lôi, khơi thông luồng lạch, là nhiệm vụ cấp bách của Bộ đội Hải quân cùng quân và dân ta lúc bấy giờ. Ông Trương Thế Hùng là sĩ quan được đào tạo cơ bản ở nước ngoài về vũ khí dưới nước, được giao làm Đội trưởng Đội 8 công binh Hải quân. Thực hiện nhiệm vụ Bộ tư lệnh Hải quân giao, Đội 8 công binh thành lập tổ công tác gồm 3 người: Đội trưởng Hùng và hai đồng chí Trần Thanh Hoài và Đào Kỳ vào Khu 4 để nghiên cứu, chuẩn bị mọi mặt cho nhiệm vụ rà phá thủy lôi, bom từ trường.


Các cựu chiến binh và nhân chứng giới thiệu các hình ảnh, tư liệu về cuộc chiến đấu chống phong tỏa sông, biển miền Bắc bằng thủy lôi, bom từ trường của đế quốc Mỹ.

Vào đến Nghệ An, tổ công tác của Đội 8 công binh Hải quân được giao tháo gỡ 2 quả thủy lôi do Bộ đội Công binh Quảng Bình vớt được và chuyển ra. Bằng các dụng cụ thô sơ, tổ công tác đã tháo gỡ hoàn chỉnh và giữ nguyên vẹn ngòi nổ chuyển về Bộ tư lệnh Hải quân nghiên cứu tính năng, nguyên lý gây nổ của thủy lôi địch. Từ những quả thủy lôi đầu tiên tháo được, sau này, Công binh Hải quân còn "bắt" và tháo được nhiều quả thủy lôi khác. Qua tìm hiểu ta thấy thủy lôi của địch có cấu tạo tinh vi, có loại nằm sâu dưới đáy biển, độ nhạy cao, có bẫy chống tháo, định hẹn giờ nổ; có loại dùng nguyên lý âm thanh, từ tính để kích nổ. Với nguyên lý, cấu tạo hiện đại, thủy lôi có thể nổ bất cứ lúc nào.

 

Đại tá Nguyễn Vũ Nghiễn, nguyên Chính trị viên Đội 8 công binh Hải quân nhớ lại: Đội 8 trong cuộc chiến chống thủy lôi, bom từ trường của Mỹ đóng quân ở 24 điểm thuộc 10 tỉnh, thành phố miền Bắc. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ được quan tâm đặc biệt. Bộ đội hằng ngày đối mặt với nguy hiểm, có thể hy sinh bất cứ lúc nào. Khá nhiều cán bộ, chiến sĩ ban đầu đi làm nhiệm vụ còn băn khoăn, Đảng bộ, chi bộ, chỉ huy các cấp kịp thời động viên và từng bước cử anh em làm nhiệm vụ để quen với công việc, tích lũy kinh nghiệm chiến đấu; cử cán bộ có trình độ, dày dạn chiến đấu kèm cặp anh em mới. Bằng cách đó, sau một thời gian, cán bộ, chiến sĩ đã trưởng thành, sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Điển hình như Phó đội trưởng Hoàng Ngọc Bội trực tiếp vào tháo thủy lôi từ trường ở cửa sông Gianh và dũng cảm hy sinh. Đồng chí Phạm Ngọc Toàn, quê ở Hưng Yên trong khi hướng dẫn dân quân, tự vệ phá thủy lôi từ trường ở Cửa Hội, bị bom nổ, hy sinh. Đồng chí Vũ Duy Thanh cùng 8 anh em đi thuyền đi trinh sát biển, "săn thủy lôi" ở cửa Nam Triệu, bị tàu chiến Mỹ bắn chìm; đồng chí Thanh hy sinh mà không tìm được thi thể... Những tấm gương dũng cảm, sẵn sàng hy sinh đã được Đội tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ học tập, qua đó, giáo dục động viên, khích lệ tinh thần toàn đơn vị sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ. 


Bản lĩnh và ý chí sáng tạo


Chiến công trong rà phá thủy lôi, bom từ trường, chống phong tỏa sông biển của đế quốc Mỹ là sự thể hiện sâu sắc bản lĩnh, ý chí sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ công binh hải quân và của quân, dân ta. Đại úy Trương Thế Hùng, cùng với kiến thức học tập ở nước ngoài đã vận dụng sáng tạo vào nghiên cứu cấu tạo, tìm ra nguyên lý hoạt động của thủy lôi. Trên cơ sở việc vận chuyển hai quả thủy lôi không nổ từ Quảng Bình ra Nghệ An, Đội trưởng Hùng quyết định tháo thủy lôi bằng dụng cụ thông thường. Khi tháo hai quả thủy lôi đầu tiên, tổ công tác bố trí từng người ở khoảng cách an toàn, hô to vị trí, thứ tự từng con ốc khi tháo được. Sự sáng tạo, dũng cảm ấy đã khiến hai quả thủy lôi MK-50 và MK-52 phải "mở miệng". Biết được nguyên lý hoạt động của thủy lôi, cán bộ, chiến sĩ công binh hải quân nhanh chóng phổ biến và huấn luyện cho lực lượng dân quân tự vệ.


Trên cơ sở các mẫu đầu nổ của thủy lôi tháo được, Nhà máy X46 và các nhà khoa học kỹ thuật hải quân nghiên cứu, lên sơ đồ mạch điện, nguyên lý nổ, từ đó thiết kế thiết bị để rà phá thủy lôi, bom, đạn của địch hiệu quả nhất. Từ trang thiết bị ban đầu thô sơ, rồi từng bước hoàn thiện, ứng dụng kỹ thuật mới để chế tạo trang bị có tính năng kỹ thuật, chiến thuật ưu việt hơn. Bằng bản lĩnh, ý chí sáng tạo, các nhà khoa học kỹ thuật hải quân cùng với các cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo các thiết bị như: HDL-9, HT-5, HT-6, máy phóng từ 480 và 311... Các thiết bị này lắp lên ca-nô, tàu phóng từ V412 và các phương tiện khác, sau khi thử nghiệm, hoàn thiện và trở thành trang bị rà phá thủy lôi hiệu quả.


Trí tuệ sáng tạo của các nhà khoa học kỹ thuật hải quân cùng với các nhà khoa học trong và ngoài quân đội tiếp tục được khẳng định, khi lực lượng Hải quân Mỹ thi hành Hiệp định Pa-ri, đã tổ chức lực lượng hùng hậu, khí tài hiện đại mà trong 5 tháng của năm 1973 chỉ phá nổ được 3 quả thủy lôi ở ngoài luồng Nam Triệu!


Với chiến công chống phong tỏa bằng thủy lôi và bom từ trường trên sông, biển miền Bắc, Bộ đội Hải quân cùng với quân và dân cả nước đã ghi thêm trang sử vẻ vang của hải quân nhân dân Việt Nam, tô thắm truyền thống anh hùng trong thời đại mới. Đó là chiến công bắt nguồn từ tư tưởng dám đánh, quyết đánh, biết đánh và quyết thắng; là sự kết hợp giữa kỹ thuật thô sơ và hiện đại với phát huy trí tuệ, ý chí, sức sáng tạo của con người Việt
Nam; là sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng trong và ngoài quân đội. Chiến công đó khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn với đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân chủng Hải quân. Giá trị lịch sử của chiến công trong chống phong tỏa sông, biển miền Bắc của đế quốc Mỹ luôn là cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động để Bộ đội Hải quân tiếp tục nghiên cứu vận dụng, bổ sung hoàn thiện lý luận nghệ thuật quân sự, nhằm đối phó hiệu quả với âm mưu phong tỏa sông biển của địch trong điều kiện mới. Kế thừa truyền thống anh hùng, kinh nghiệm chiến đấu, Bộ đội Hải quân đã và đang triển khai có hiệu quả nhiệm vụ làm nòng cốt trong quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.


Bài và ảnh: ĐÌNH XUÂN