QĐND - Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã đề ra nhiệm vụ "Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa". Đây được coi là một trong những khâu đột phá trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình chuyển đổi này, sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa chưa đạt được tính bền vững; có nhiều biến động, ảnh hưởng đến sự phát triển nhiều mặt đời sống, trong đó có lĩnh vực văn hóa nói chung, công nghiệp văn hóa nói riêng. Cơ chế quan liêu bao cấp vẫn còn ảnh hưởng lớn đến hoạt động quản lý văn hóa; nguồn nhân lực cho văn hóa còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Kinh tế Việt Nam phát triển nhưng vẫn còn một khoảng cách nhất định với các quốc gia khác tại khu vực Đông Nam Á như: Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin. Sự phát triển của công nghiệp văn hóa ở Việt Nam vì vậy còn chậm chạp và vẫn đang chịu áp lực bởi nhiều khó khăn, thách thức như: Sự kém linh động trong phương cách tiếp cận, thiếu liên kết giữa các bộ, ngành; nhận thức về tiềm năng làm việc trong ngành công nghiệp sáng tạo không cao; sự vi phạm quyền sở hữu trí tuệ còn diễn ra phổ biến đã làm hạn chế tiềm năng phát triển của một số doanh nghiệp sáng tạo; quản lý nhà nước và kỹ năng kinh doanh chưa thích ứng với cơ chế thị trường, còn tình trạng quan liêu, thiếu minh bạch. Nhìn chung các lĩnh vực văn hóa chưa kịp chuyển đổi cơ chế chính sách và mô hình tổ chức để vận hành cho phù hợp với quy luật cạnh tranh của cơ chế thị trường.
Dù chậm và gặp nhiều khó khăn hơn một số nước trong việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nhưng chúng ta cũng có nhiều tiềm năng to lớn trong việc phát triển các ngành công nghiệp này. Nền văn hóa phong phú, độc đáo của 54 dân tộc được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử với sự hiện diện của nhiều di sản văn hóa, cả vật thể và phi vật thể, cộng với những ưu đãi về vẻ đẹp thiên nhiên đặc biệt có thể trở thành những chất liệu quan trọng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa. Bên cạnh đó, với quy mô dân số trẻ, nhanh nhạy trong hội nhập quốc tế, kinh tế đang trên đà phát triển sẽ là những động lực cho sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trong thời gian sắp tới.
Tuy vậy, từ việc ý thức được tầm quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa và đưa ra một nhiệm vụ tới việc triển khai nhiệm vụ tốt trong thực tiễn là vô cùng khó khăn. Để làm được điều đó, theo chúng tôi, nước ta cần phải thực hiện những công việc sau:
Thứ nhất, cải cách thể chế văn hóa là khâu then chốt để hình thành lĩnh vực công nghiệp văn hóa mang tinh thần cởi mở, đổi mới, có năng lực kinh doanh, tạo ra việc làm và các giá trị kinh tế đa dạng, đồng thời kết nối hơn với nhu cầu và mong muốn của người dân. Trong đó chú trọng vào 11 hoạt động sau:
1 - Đánh giá mô hình quản trị và đầu tư tổng thể cho văn hóa ở Việt Nam để giảm sự chồng chéo và quan liêu trong cơ cấu ban ngành, khuyến khích một loạt các mô hình đầu tư và kinh doanh đối với các tổ chức văn hóa, ứng dụng một tinh thần mới về sáng tạo và cải tổ cho các thiết chế văn hóa hiện đang vận hành trì trệ;
2 - Định vị ngành công nghiệp văn hóa và nền kinh tế sáng tạo mang tính tổng thể như một chương trình nghị sự trọng điểm trong phát triển của tất cả bộ, ngành với tầm nhìn đến năm 2030;
3 - Mở ra những mô hình đầu tư mới cho công nghiệp văn hóa, bao gồm các cơ hội cho các tổ chức văn hóa có thể đa dạng hóa nguồn thu, kinh doanh và tiếp cận những loại hình tài chính khác nhau;
4 - Có những hình thức trao thưởng cho tinh thần doanh nghiệp và sự đổi mới trong các tổ chức văn hóa thông qua tăng lương, thưởng và các điều kiện cải thiện khác cho các chuyên gia văn hóa, những người tạo ra các hiệu quả phát triển đo lường được (ví dụ như tăng doanh thu, tăng lượng công chúng, thực hiện tốt các chương trình giáo dục và các chương trình xã hội);
5 - Đánh giá các quy định về quyền sở hữu trí tuệ để hướng đến một cấu trúc luật định tổng thể về tài sản trí tuệ một cách rõ ràng hơn cho Việt Nam;
6 - Xây dựng một hệ thống phân loại rõ ràng và dễ hiểu về thẩm định tác phẩm để giúp những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và đầu tư văn hóa có thể tự tin trong hoạt động của mình;
7 - Ứng dụng các sáng kiến hoạch định cho những hoạt động của các tổ hợp sáng tạo của công nghiệp văn hóa;
8 - Tìm các cơ hội về ưu đãi thuế đối với đầu tư cho công nghiệp văn hóa;
9 - Thực hiện các sáng kiến về xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ văn hóa, mở rộng hoạt động trao đổi văn hóa với quốc tế và xây dựng các thị phần cho công nghiệp văn hóa Việt Nam;
10 - Đánh giá lại các hiệp định thương mại quốc tế và các luật định để cải tiến các điều kiện về kinh doanh văn hóa và giảm chi phí đối với thiết bị nhập khẩu có tầm quan trọng lớn cho sản xuất trong công nghiệp văn hóa;
11 - Lựa chọn về mô hình phù hợp cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, ví dụ như các mô hình ủy ban điện ảnh, các đơn vị/tổ chức/hiệp hội phát triển thủ công nghiệp và các phương thức đầu tư, đóng góp chuyên biệt như việc hiến tặng, bảo trợ, tài trợ cho văn hóa...
Thứ hai, các ngành công nghiệp văn hóa tạo ra nhiều công việc mới và đem lại cho nhiều tài năng sáng tạo cơ hội phát triển và biến khả năng đó thành lợi ích kinh tế. Để làm được điều đó, chúng ta cần phải xây dựng thị trường nội địa và quốc tế rộng lớn cho các sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam. Việt Nam phải tập trung vào xây dựng các thị trường năng động và vững mạnh cho sản phẩm và dịch vụ văn hóa Việt Nam; đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ văn hóa; tăng trưởng và gắn kết hiệu quả hơn giữa các tổ chức sáng tạo, sản xuất văn hóa với công chúng. Xây dựng thị trường văn hóa cần tập trung vào 8 nhóm hoạt động sau:
1 - Tăng cường nhận thức của toàn xã hội về công nghiệp văn hóa như một lĩnh vực có tầm quan trọng sống còn cho phát triển quốc gia, cho sự độc đáo và năng lực cạnh tranh quốc tế, tạo ra các thị trường hàng hóa và dịch vụ văn hóa địa phương và truyền cảm hứng cho các thế hệ theo đuổi nghề nghiệp về công nghiệp văn hóa;
2 - Nâng cao nhận thức về quyền của nghệ sĩ, giảm vi phạm bản quyền và cam kết sử dụng các tác phẩm có bản quyền;
3 - Nâng cấp cơ sở hạ tầng về văn hóa và các mô hình tổ chức để lĩnh vực văn hóa hướng đến công chúng hơn, mang tính tương tác hơn;
4 - Tạo ra thương hiệu quốc gia về công nghiệp văn hóa hay xây dựng một loạt các thương hiệu để quảng bá cho ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam trên toàn quốc và trên thế giới;
5 - Nối kết các hoạt động xây dựng thị trường trong các lĩnh vực khác nhau để gia tăng hình ảnh và phát triển thị trường cho các hoạt động về công nghiệp văn hóa;
6 - Xây dựng thị trường cho sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa ở khu vực nông thôn, thông qua các chương trình đào tạo cho người sản xuất, marketing hướng đến những mục tiêu cụ thể và các triển lãm hay trưng bày tại các hội chợ thương mại quốc gia và quốc tế;
7 - Hướng tới các triển lãm hay trưng bày có uy tín, chất lượng và cơ hội marketing tại các hội chợ thương mại quốc tế, thông qua đó để thiết lập các sự kiện trưng bày mới, giới thiệu về công nghiệp văn hóa Việt Nam, nhằm tôn vinh công nghiệp văn hóa với chất lượng cao và độc đáo với phương thức tiếp cận hướng đến kinh doanh;
8 - Thiết lập danh mục các địa điểm bán lẻ của ngành công nghiệp văn hóa tại các khu vực du lịch-ví dụ như các trung tâm thiết kế và sản xuất hàng thủ công, thời trang và kỹ thuật số.
Tóm lại, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ giúp Việt Nam tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm-dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm công ăn việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho nền kinh tế, góp phần mang văn hóa Việt Nam ra với thế giới, phát huy nội lực, quảng bá hình ảnh đất nước. Trong thời đại của kinh tế tri thức và công nghệ thông tin, công nghiệp văn hóa có khả năng biến văn hóa trở thành bộ phận quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp Việt Nam xây dựng được một nền kinh tế sáng tạo, thịnh vượng, tự tin và độc đáo. Chính vì vậy, đã đến lúc Việt Nam cần nhập cuộc với xu thế thời đại, vươn lên nắm lấy vị trí của một quốc gia có các ngành công nghiệp văn hóa phát triển.
TS BÙI HOÀI SƠN, Phó viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam