QĐND - Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là một trong những vấn đề được đại hội Đảng cấp cơ sở thảo luận, tranh luận nhiều khi góp ý dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 2011-2015 là: “Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế…”. Sau đại hội, hàng loạt nghị quyết, chủ trương, quyết sách của các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã được đề ra. Và chúng ta đã làm được nhiều việc, đạt nhiều kết quả, nhưng cũng còn nhiều việc đang dở dang, thậm chí chưa làm được nhiều.
Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã khẳng định: “Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện 3 đột phá chiến lược đạt kết quả tích cực bước đầu”. Thế nhưng, cũng trong văn bản này, Ban Chấp hành Trung ương thẳng thắn thừa nhận: “Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm”. Tôi tán thành với quan điểm này, nhưng đề nghị cần phải phân tích, làm rõ thêm nguyên nhân vì sao chậm?
Theo tôi, việc thực hiện chậm, trước hết là do chủ trương tái cơ cấu kinh tế được thảo luận sâu rộng các năm 2008-2010, được ghi nhận tại Văn kiện Đại hội XI của Đảng năm 2011, nhưng liền sau đó, do nhận thức được tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà nước ta đã huy động nỗ lực tối đa vào nhiệm vụ “kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô…” tạo đà cho khôi phục kinh tế, từng bước thực hiện tái cơ cấu kinh tế trong các bộ phận quan trọng nhất của đầu tư công, ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước. Qua triển khai thực tiễn, đến năm 2013 đã có Đề án tổng thể thực hiện tái cơ cấu và trên cơ sở Hiến pháp mới 2013, Nhà nước ta từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp luật để tiến hành được toàn diện và sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, các kế hoạch triển khai tái cơ cấu vẫn chậm: Tái cơ cấu đầu tư chưa có kế hoạch tổng thể do mới có Luật Đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mới có kế hoạch chủ yếu cho 2 năm; tái cơ cấu ngân hàng và các tổ chức tín dụng mới thực hiện một số bước đi quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề lớn của nợ xấu và sở hữu chéo… Vì sao vậy? Trước hết, đó là do tư duy cũ, chờ đợi, ỷ lại, mà không thấy rằng, trong hệ thống cần tái cơ cấu thì mỗi phần tử, mỗi đơn vị cần có những chuyển biến, nhất là làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn, năng suất cao hơn. Cũng có thể còn có sự hiểu đơn giản, rồi chờ đợi các quyết sách “từ trên”. Trên hết, một trong những nguyên nhân làm cho quá trình cơ cấu lại nền kinh tế bị chậm là do thiếu thể chế kinh tế được đổi mới phù hợp.
Chẳng hạn về tái cơ cấu đầu tư, tuy từ giữa năm 2014 đã có Luật Đầu tư công, nhưng Luật Ngân sách (sửa đổi) chưa thông qua và đi vào thực hiện, Luật Đầu tư vốn nhà nước cho các doanh nghiệp ý kiến còn phân tán. Cải cách doanh nghiệp nhà nước còn nhiều lúng túng, ngại ảnh hưởng đến lực lượng “nòng cốt”, chưa nhận thức được vai trò của các thành phần kinh tế trong kinh tế thị trường, nhất là khu vực tư nhân. Vừa qua, Quốc hội đã quy định các doanh nghiệp nhà nước chỉ bao gồm các doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước, nên số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được thu hẹp, nhưng các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa lại bị thiếu quản lý, nhất là với phần vốn Nhà nước vẫn còn rất lớn. Tái cơ cấu các ngành và địa phương có nêu ra, nhưng tư duy còn chưa thay đổi đáng kể, nên kế hoạch chưa có chất lượng mới.
Để đẩy nhanh việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với việc đổi mới mô hình tăng trưởng, tôi đề nghị trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII cần bổ sung thêm hai giải pháp sau đây:
Một là, việc tái cơ cấu kinh tế không phải là sửa chữa một vài khuyết tật riêng lẻ, mà cần hình thành một mô hình kinh tế mới, đi nhanh vào phát triển chiều sâu, đưa kinh tế tiến vượt lên cùng thời đại toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt. Trong mô hình kinh tế mới, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân cần được coi trọng hơn, để khu vực này có thể đóng vai trò nhiều hơn, khu vực kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo, dẫn dắt, làm gương và sẵn sàng thoái vốn để chuyển sang các lĩnh vực “khó” nhất, dẫn dắt sự phát triển, không phải làm mọi lĩnh vực.
Hai là, trong đổi mới cơ cấu kinh tế, vấn đề xây dựng thể chế kinh tế mới dựa trên đổi mới Nhà nước pháp quyền, thực hiện chế độ dân chủ đích thực đang là những yêu cầu mạnh mẽ. Thể chế không chỉ bao gồm hệ thống pháp luật, các quy chế, quy tắc, mà còn bao gồm cả hệ thống tổ chức thực hiện và các cán bộ, nhân viên thực thi pháp luật. Một khi các quy định pháp luật sau Hiến pháp 2013 còn đang sửa “dang dở”, tiến hành sửa luật riêng rẽ, thiếu phối hợp. Chẳng hạn chỉ riêng sửa các luật liên quan đến xử lý nợ xấu có liên quan đến xử lý tài sản, vốn sở hữu chéo trong các ngân hàng… cũng vẫn chưa được xử lý đồng bộ.
Trong dự thảo Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, ở phần thứ hai, mục IV (Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu), tôi nhất trí cơ bản với các giải pháp đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhưng đề nghị sắp xếp lại, đưa nội dung “bảo đảm quốc phòng-an ninh” lên trước nội dung “phát triển văn hóa” thành: “Gắn kết hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; bảo vệ, cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu”. Sở dĩ phải thay đổi vị trí này xuất phát từ vị trí đặc biệt quan trọng của việc bảo đảm quốc phòng-an ninh. Nếu không bảo đảm quốc phòng-an ninh thì không thể tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Thượng tá NGUYỄN SỸ NAM, Giám đốc Công ty TNHH MTV In Quân đội 1