QĐND Online – Quy định các tiêu chí sao cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước, vừa kiểm soát được những công trình lớn, vừa bảo đảm được hành lang cho những công trình, dự án lớn có cơ hội tiến hành, giúp đất nước phát triển là những băn khoăn, trăn trở trong những kiến nghị của các đại biểu tại buổi thảo luận về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 66/2006/QH11 diễn ra ngày 14-6…

Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội Nguyễn Thị Hồng Hà phát biểu ý kiến. Ảnh: Thái Bình – TTXVN

Quy định cụ thể hay phần trăm?

Tiêu chí vốn được khá nhiều đại biểu đề cập trong buổi thảo luận sáng 14-6. Theo Dự thảo Nghị quyết, “Quy mô tổng vốn đầu tư từ ba mươi lăm nghìn tỷ đồng Việt Nam (35.000 tỷ đồng) trở lên (theo thời giá tháng 6-2010) đối với dự án, công trình có sử dụng từ ba mươi phần trăm (30%) vốn Nhà nước trở lên trên tổng số vốn đầu tư dự án, công trình” là một tiêu chí về các dự án, công trình quan trọng. Nhiều đại biểu cho rằng, quy định theo dự thảo là chưa phù hợp và thiếu căn cứ. Nếu cứ để quy định như vậy, sẽ dẫn đến tình trạng có dự án sử dụng nguồn vốn Nhà nước rất nhiều nhưng lại không thuộc dự án trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư.

Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết (đoàn Lạng Sơn) nêu ý kiến: về quy mô vốn, nếu quy định con số cụ thể, sau một số năm sẽ có sự biến động do trượt giá. Nên quy định theo phần trăm của GDP. Như hiện tại, ta đang quy định quy mô vốn là 25.000 tỷ đồng, giờ theo dự thảo tăng lên 35.000 tỷ đồng, như vậy chiếm khoảng 2-3% GDP. Nếu quy định theo phần trăm của GDP sẽ ổn định và bảo đảm hơn.

Ủng hộ quan điểm này, đại biểu Nghiêm Vũ Khải (đoàn Điện Biên) cho rằng, nên quy định dự án nào có vốn khoảng 2% GDP thì phải trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Mặt khác, với số vốn Nhà nước trong công trình, dự án đó thì cũng nên quy định là 2% ngân sách Nhà nước. Như vậy, mới bảo đảm quản lý tốt, tránh việc quy theo phần trăm của tổng số vốn công trình, dẫn đến có dự án sử dụng rất nhiều vốn Nhà nước mà vẫn chưa thuộc dự án phải trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư.

Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Đình Xuân (đoàn Tây Ninh) lại có quan điểm khác. Đại biểu Xuân cho rằng, chúng ta nên lấy con số tuyệt đối, như 35.000 tỷ đồng là phù hợp. Vì tính theo GDP sẽ khó và kéo dài, GDP lại hay thay đổi. Mặt khác, cần nhìn vào thực tế, Nghị quyết 66 đã ra được 4 năm, đến giờ sửa đổi, bổ sung là phù hợp. Chúng ta tiếp tục quy định tuyệt đối rồi sau 4 đến 5 năm nữa lại bổ sung. Đây là nghị quyết và có thể điều chỉnh không quá khó khăn, nên với thời gian như vậy thay đổi là hợp lý và phù hợp với sự thay đổi của điều kiện thực tế phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc giải đáp: Hiện nay, kinh tế phát triển, quy mô của các dự án, công trình đầu tư ngày càng lớn. Xem xét trên thực tế cho thấy, nếu cứ giữ mức 25.000 tỷ đồng thì sẽ có rất nhiều dự án phải trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Như các công trình thuỷ điện của nước ta đều vượt mức này. Nếu vậy, Quốc hội sẽ không đủ thời gian mà quyết định hết các dự án, nên Ban soạn thảo đã tính toán và đưa ra mức 35.000 tỷ đồng. Còn về việc căn cứ vào tỷ lệ phần trăm ngân sách Nhà nước và GDP sẽ rất khó thực hiện. Vì theo Luật Ngân sách, năm sau mới quyết định ngân sách năm trước nữa, tháng 7 năm nay thì mới báo cáo GDP năm trước. Như vậy, lấy con số nào, năm nào để áp vào cho hợp lý.

Sao chỉ có đất rừng?

Trong các tiêu chí quy định trong dự thảo Nghị quyết có quy định dự án đầu tư sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất rừng. Nghiên cứu tiêu chí này, một số đại biểu cho rằng, quy định như vậy chưa chặt chẽ và thiếu những loại đất khác như đất lúa vẫn chưa được đưa vào…

Đại biểu Nguyễn Đình Xuân cho rằng, quy định như trong dự thảo là có khe hở khi quy định: “rừng sản xuất từ một nghìn ha (1.000 ha) trở lên, trừ các dự án trồng rừng, trồng cao su trên đất rừng sản xuất”. Như vậy sẽ dễ bị lợi dụng. Mặt khác nếu dự án sử dụng nhiều nghìn ha rừng trồng cao su thì sao, chẳng nhẽ chưa đủ quan trọng để Quốc hội xem xét? Đây là điều cần cân nhắc cho kỹ. Ngoài ra, rừng chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng biển là những khu rừng rất quan trọng mà theo dự thảo quy định diện tích nhiều như vậy là chưa hợp lý. Trong thực tế có việc chia lô ra làm, ở một khu vực sử dụng diện tích rừng rất lớn, nhưng xét từng lô nhỏ thì chưa đủ tiêu chuẩn để trình Quốc hội. Thực tế này cần xem xét lại, quy định cụ thể để tránh bị lợi dụng.

Đồng tình với quan điểm đại biểu Xuân, đại biểu Nguyễn Danh (đoàn Gia Lai) chỉ rõ, nên bỏ quy định “trừ các dự án trồng rừng, trồng cao su trên đất rừng sản xuất”, không thể để cây cao su ở ngoài như vậy được. Ngoài ra, với các rừng đặc dụng, đầu nguồn nên hạ chỉ tiêu xuống vì những loại rừng này có ý nghĩa đặc biệt với môi trường.

Đại biểu Vũ Quang Hải (đoàn Hưng Yên), đại biểu Nguyễn Hữu Quang (đoàn Nghệ An) cùng quan điểm và nhấn mạnh, không nên chỉ nêu tiêu chí về đất rừng, đất lúa là nguồn tài nguyên rất quan trọng, cả thế giới đều công nhận sao không đưa vào dự thảo Nghị quyết? Để có một cm đất tự nhiên phải mất đến 100 năm, do vậy cần đưa chỉ tiêu sử dụng đất lúa vào trong các tiêu chí xét dự án, công trình quan trọng. Ngoài ra, đất trồng cây cà phê, cây tiêu cũng cần quy định.

Chiều 14-6, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về Dự án Luật Thanh tra (sửa đổi).

Xuân Dũng