QĐND Online – Sáng 17-6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua 5 luật gồm: Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; Luật Bưu chính; Luật Sử dụng năng lượng tiết  kiệm và hiệu quả; Luật Người khuyết tật; Luật Nuôi con nuôi…

 

Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được thông qua với 424 phiếu tán thành, đạt 86%. Luật gồm 4 chương, 13 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2012. Theo Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, đối tượng chịu thuế gồm: đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, bao gồm đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất khai thác, chế biến khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm; đất phi nông nghiệp quy định tại Điều 3 của Luật này sử dụng vào mục đích kinh doanh.

Thuế suất đối với đất ở, kể cả đất vừa để ở, vừa để kinh doanh áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần được quy định như sau: Diện tích trong hạn mức là 0,03%, phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức là 0,07%, phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức là 0,15%. Hạn mức đất làm căn cứ tính thuế là hạn mức giao đất ở mới theo quy định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành. Đất ở nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư, công trình xây dựng dưới mặt đất áp dụng mức thuế suất 0,03%. Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp áp dụng mức thuế suất 0,03%. Đất phi nông nghiệp quy định tại Điều 3 của Luật này sử dụng vào mục đích kinh doanh áp dụng mức thuế suất 0,03%. Đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo đúng quy định áp dụng mức thuế suất 0,15%. Trường hợp đất của dự án đầu tư phân kỳ theo đăng ký của nhà đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì không coi là đất chưa sử dụng và áp dụng mức thuế suất 0,03%.  Đất lấn, chiếm, áp dụng mức thuế suất 0,2% và không áp dụng hạn mức. Việc nộp thuế không phải là căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của người nộp thuế đối với diện tích đất lấn, chiếm.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Đặng Vũ Minh trình bày Báo cáo tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Bưu chính. Ảnh: Doãn Tấn - TTXVN.

 

Luật Bưu chính được thông qua với 423 phiếu tán thành đạt 85,8%. Luật gồm 10 chương, 46 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2011. Luật Bưu chính quy định 5 nguyên tắc hoạt động bưu chính đó là: bảo đảm an ninh, an toàn, kịp thời, chính xác, tiện lợi trong cung ứng và sử dụng dịch vụ bưu chính; bảo đảm bí mật thư theo quy định của pháp luật; kinh doanh dịch vụ bưu chính theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; bảo đảm cung ứng dịch vụ bưu chính công ích thường xuyên, ổn định cho xã hội; tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động bưu chính.

Người sử dụng dịch vụ bưu chính có các quyền và nghĩa vụ: được doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về dịch vụ bưu chính mà mình sử dụng; được bảo đảm an toàn và an ninh thông tin; khiếu nại về dịch vụ bưu chính đã sử dụng; được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; ghi đúng họ tên, địa chỉ của người gửi và người nhận; cung cấp thông tin về bưu gửi; chịu trách nhiệm trước pháp luật về bưu gửi; thực hiện các quy định về an toàn, an ninh đối với bưu gửi; thanh toán đủ giá cước dịch vụ bưu chính mà mình sử dụng, trừ trường hợp được miễn, giảm giá cước theo quy định của pháp luật hoặc các bên có thoả thuận khác; trả thù lao, chi phí hợp lý khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu bưu gửi; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát bưu gửi đến địa chỉ của mình hoặc lắp đặt hộp thư tại vị trí thuận tiện cho việc phát bưu gửi; bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính theo quy định tại Điều 42 của Luật này.

 

Luật Sử dụng năng lượng tiết  kiệm và hiệu quả được thông qua với 423 phiếu tán thành, đạt tỷ lệ 85,8%. Luật gồm 12 chương, 48 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2011. Luật quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước về thực hiện kế hoạch sử dụng năng lượng tiết kiêm và hiệu quả. Theo đó, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hằng năm phải xây dựng kế hoạch, biện pháp thực hiện tiết kiệm năn lượng; ban hành quy chế sử dụng năng lượng của cơ quan đơn vị. Đăng ký kế hoạch sử dụng năng lượng hằng năm với cơ quan quản lý nhà nước về năng lượng tại địa phương; phổ biết kế hoạch, biện pháp và quy chế thực hiện kế hoạch sử dụng năng lượng đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức. Tổ chức kiểm tra, đánh giá và áp dụng hình thức khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức trực thuộc cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện kế hoạch sử dụng năng lượng.

 

Luật Người khuyết tật được thông qua với 429 phiếu tán thành đạt 87,02%. Luật gồm 10 chương, 53 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2011. Luật quy định cụ thể về chính sách nhận người khuyết tật vào làm việc. Theo đó, Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc. Doang nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật làm việc được hưởng chính sách ưu đãi. Chí phủ quy định cụ thể chính sách khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc.

Về trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng, Luật Người khuyết tật quy định: đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bao gồm: người khuyết tật đặc biệt nặng; người khuyết tật nặng. Đối tượng được hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng bao gồm: gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người đó; người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng; người khuyết tật thuộc đối tượng nhận trợ cấp hàng tháng đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Người khuyết tật thuộc đối tượng nhận trợ cấp hàng tháng là trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức trợ cấp cao hơn. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng, mức hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng đối với từng loại đối tượng trên do Chính phủ quy định.

 

Luật Nuôi con nuôi được thông qua với 433 phiếu tán thành, đạt tỷ lệ 87,83%. Luật gồm 5 chương, 52 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2011. Một số điểm đáng chú ý của Luật Nuôi con nuôi là quy định cụ thể người không được nhận con nuôi, căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi, lệ phí đăng ký nuôi con nuôi, chi phí giải quyết nuoi con nuôi người nước ngoài… Theo Luật, người không được nhận con nuôi là những người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang chấp hành hình phạt tù; chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vị phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp: con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi; con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi, ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi; có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tôi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con nuôi, ngược đãi, hành hạ con nuôi; vi phạm các hành vi bị cấm được quy định trong luật này.

Chiều 17-6, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Luật Thi hành án hình sự, Luật Trọng tài thương mại và Luật An toàn thực phẩm.

Xuân Dũng