QĐND - Quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, giữ nước từ khi nước chưa nguy, giữ nước từ thời bình được Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc trong quá trình đổi mới nhận thức về hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong các nghị quyết, Đảng ta đều xác định: Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là một trong những thành tựu nổi bật trong 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phát triển và hoàn thiện nhận thức của Đảng về bảo vệ Tổ quốc
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đảng ta luôn khẳng định, bảo vệ Tổ quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau; trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, đồng thời Đảng rất coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta khẳng định: Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng-an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Việc nhận thức đúng và cụ thể hóa mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp củng cố quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng đất nước. Những thành tựu quan trọng trong giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình, phát triển kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tăng cường quốc phòng-an ninh… đã chứng tỏ nhận thức đúng đắn của Đảng về kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cả trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định sức mạnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, bởi vậy, đối ngoại trở thành một mặt trận quan trọng góp phần ngăn ngừa xung đột vũ trang, ngăn ngừa chiến tranh, tạo dựng môi trường hòa bình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, Đảng chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng-an ninh với công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế; lấy hợp tác là chính, đấu tranh để hợp tác quốc tế tốt hơn, tránh căng thẳng, đối đầu.
Không chỉ nhận thức một cách đầy đủ việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường, củng cố quốc phòng-an ninh và đối ngoại, thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta cũng đã nhận thức rõ hơn và phát triển về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phù hợp với tình hình thế giới, khu vực và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong nước; giải quyết hài hòa giữa nhu cầu bảo vệ và khả năng của đất nước. Đây là cơ sở hết sức quan trọng để Đảng ta thống nhất và huy động được các nguồn lực tham gia bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), mục tiêu bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta xác định là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ XHCN, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Từ thực tiễn của sự nghiệp cách mạng và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, khi ban hành Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) và sau đó là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Đảng ta đã xác định mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc một cách đầy đủ, toàn diện hơn, bao gồm: Bảo vệ Tổ quốc XHCN không những là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Đặc biệt, trước những vấn đề thực tiễn đặt ra, Đại hội XI đã đưa vấn đề “giữ vững chủ quyền biển, đảo” vào nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đưa vấn đề “ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống” vào nhiệm vụ an ninh, quốc phòng và nhấn mạnh vấn đề an ninh chủ động.
 |
Ảnh minh họa/TTXVN
|
Cùng với đó, nhận thức về quan điểm và phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng cũng được phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; là cơ sở để vận dụng, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Theo đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; mối quan hệ gắn bó giữa mục tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Để khắc phục những hạn chế trước đây, Đảng đã cụ thể hóa phương châm chỉ đạo: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược. Kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế; có đối sách phù hợp. Từ phương châm đó, Đảng xác định: Bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại; sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sức mạnh của nền kinh tế và tiềm lực quốc gia, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định. Như vậy, theo quan niệm của Đảng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Đảng chỉ rõ vai trò của từng thành tố và phương thức tạo ra sức mạnh tổng hợp, lấy sức mạnh chính trị, tinh thần làm cốt lõi, xuyên suốt; lấy đại đoàn kết dân tộc làm động lực chủ yếu; lấy xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng, phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.
Thành tựu nổi bật
Thành tựu nổi bật, cơ bản, bao trùm trong suốt 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng việc phát huy sức mạnh tổng hợp là độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc được giữ vững; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, tạo ra những điều kiện hết sức thuận lợi để đất nước phát triển nhanh, toàn diện và vững chắc.
Nhìn lại thực tiễn 30 năm qua, nhất là 10 năm gần đây, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường; đất nước gặp không ít khó khăn, thách thức; các thế lực thù địch tăng cường chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, nhất là những âm mưu, thủ đoạn hết sức thâm hiểm trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng những khó khăn, hạn chế về quản lý kinh tế-xã hội ở trong nước thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trong bối cảnh đó, những thành tựu đạt được trên lĩnh vực quốc phòng-an ninh, nhất là giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình không những tạo điều kiện thuận lợi để đất nước phát triển toàn diện, mà còn là minh chứng sinh động về những chủ trương, giải pháp lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước; sự đồng tâm, nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; sự kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại... Kết quả đó không chỉ đem lại những thành tựu trong phát triển kinh tế-xã hội, mà còn nâng cao uy tín, vị thế của đất nước trên trường quốc tế; thể hiện rõ vai trò, vị trí của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng-an ninh được tăng cường, sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước.
Với tư duy đổi mới và sáng tạo, với quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh và đối ngoại một cách có hiệu quả. Đó cũng chính là bước cụ thể hóa việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của Đảng mang lại những thành tựu rất quan trọng. Trong từng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, Đảng, Nhà nước đều đặc biệt chú trọng đến việc đáp ứng yêu cầu về quốc phòng-an ninh. Đồng thời, trong thực hiện chiến lược về quốc phòng-an ninh đều đã điều chỉnh kế hoạch, thế trận, bố trí lực lượng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hợp tác, phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường khả năng dự trữ và huy động vật chất phục vụ nhiệm vụ quốc phòng-an ninh. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện, có bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu; tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng-an ninh ngày càng được tăng cường, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng quốc phòng được quan tâm xây dựng, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang được nâng lên. Đặc biệt, trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước đã chủ trương đầu tư xây dựng toàn diện lực lượng vũ trang theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; trong đó hết sức coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc.
Một thành tựu nổi bật trong thực hiện đường lối đổi mới về quốc phòng-an ninh là đã không ngừng giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang, sự nghiệp quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Vai trò lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở đối với sự nghiệp quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rõ và luôn là nhân tố quyết định thắng lợi. Quân ủy Trung ương, Đảng ủy Công an Trung ương, đảng ủy các quân khu, đảng ủy quân sự ở các địa phương đã giữ vững vai trò lãnh đạo đối với nhiệm vụ quốc phòng-an ninh. Các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang thường xuyên được củng cố, kiện toàn, phát huy tốt vai trò, hiệu lực lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng và từng cấp ủy luôn nắm vững quyền lãnh đạo cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đối với sự nghiệp quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Mọi hoạt động, nhiệm vụ về quốc phòng-an ninh đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng các cấp thể hiện trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng-an ninh theo chức năng, nhiệm vụ, nội dung và phạm vi quy định cho từng cấp. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc cũng được đổi mới theo hướng sát cơ sở, sát thực tiễn. Cơ chế lãnh đạo của Đảng được hoàn thiện và vận dụng hiệu quả trong thực tiễn; hiệu lực quản lý Nhà nước được nâng lên. Việc ban hành Nghị quyết số 51 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” góp phần rất quan trọng hoàn thiện thêm một bước cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân. Nghị quyết số 28 của Bộ Chính trị (khóa X) về xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc góp phần hoàn chỉnh một bước quan trọng về cơ chế vận hành của khu vực phòng thủ. Thực chất đây chính là bước hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ở các địa phương. Cùng với đó, thực hiện đường lối đổi mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng có nhiều giải pháp hết sức chủ động đập tan âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu “phi chính trị hóa lực lượng vũ trang”, đòi đa nguyên, đa đảng…
LÊ NGỌC LONG
Bài 1: Sự phát triển đường lối đổi mới của Đảng
Bài 2: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Bài 4: Hiệu quả công tác xây dựng Đảng