Không có được may mắn tìm lại ánh sáng như tác giả cuốn tự truyện “Tôi mù” Nguyễn Thanh Tú, thế giới xung quanh với chị vẫn là bóng đêm. Song những gì chị đã và đang làm khiến nhiều người phải ngạc nhiên. Chị là Trần Việt Anh, cán bộ phụ trách bộ môn tin học và thông tin đối ngoại của Trung tâm Đào tạo phục hồi chức năng cho người mù, Hội Người mù.

Ba, mẹ là đôi mắt

Sinh ra bên dòng sông Ngàn Phố (Hương Sơn, Hà Tĩnh), Việt Anh thật dễ thương với khuôn mặt bầu bĩnh và đôi mắt đen, tròn rất đẹp. Tiếng cười trong trẻo của cô bé là niềm vui của ba, mẹ sau mỗi lần trở về nhà. Chẳng ai có thể nghĩ đến một ngày…

Tai họa khủng khiếp đã giáng lên đầu cả gia đình Việt Anh. Sau một đợt sốt cao, căn bệnh thoái hóa giác mạc dần cướp đi nguồn ánh sáng của cô bé. Ba tuổi, quá bé để Việt Anh có thể hiểu được tại sao ba vẫn thường thở dài, thi thoảng mẹ lại ôm cô bé vào lòng vuốt ve rồi khóc.

Dù chưa đủ tuổi, lên 5, Việt Anh cứ nằng nặc đòi ba đưa đến trường. Thương con, ông đành gạt nước mắt đưa con đến trường xin học. Để chuẩn bị cho cô con gái đến trường, hằng đêm ba mẹ thay nhau kẻ dòng và tô thật đậm từng hàng một bằng bút mực. Mỗi ngày đến lớp, Việt Anh phải ghé thật sát vào trang vở, khó khăn lắm mới nhận ra những dòng kẻ thấm đẫm cả những xót xa và tình yêu thương của ba, mẹ. Những dòng chữ nhòa dần, đè lên nhau nhảy múa, thách thức.

Những ngày mưa, thời tiết xấu, trên con đường quê lầy lội đến lớp, cô bé bì bõm lội trong những vũng bùn, những ổ gà, ổ voi, thường xuyên trượt ngã. Đến trường, về nhà, mặt mũi, quần áo lấm lem. Nhưng buồn nhất, lo nhất trong những ngày mưa là Việt Anh không nhận ra được những dòng kẻ nữa. Ở lớp, thầy giáo xếp cho Việt Anh ngồi ngay bàn đầu, cạnh cửa ra vào, nơi có nhiều ánh sáng nhất. Tuy thế, tấm bảng trước mắt cũng chỉ duy nhất có một màu: đen.

Về nhà ba, mẹ thường tranh thủ giúp Việt Anh đọc trước bài học, hướng dẫn con gái làm các phần bài tập, để Việt Anh tự tìm ra đáp án rồi ghi vào vở cho con. Nhiều đêm mải miết, chăm chú với những bài học mới, ngọn đèn dầu khêu to làm tóc cháy xém, khét lẹt. Mỗi lần như thế, Việt Anh chạnh lòng, nỗi buồn kéo đến, tràn cả đôi mắt không còn nguyên lành nữa.

Đêm đêm, khi con gái đã ngủ say với những giấc mơ không ánh sáng, ba, mẹ lại cặm cụi bên ngọn đèn dầu soạn giáo án. Đồng lương của giáo viên cấp 2 thời bao cấp không đủ trang trải chi phí sinh hoạt, học tập cho 5 đứa con. Thương con, ngoài giờ lên lớp, hai người lại lăn lưng ra trồng thêm rau, nuôi thêm con lợn, con gà, dành dụm từng đồng một để mỗi dịp hè đưa Việt Anh ra Hà Nội chữa bệnh. Nhưng mọi phương thuốc đều trở nên vô hiệu. Khuôn mặt âu lo của ba, mẹ, những giọt nước mắt chỉ còn được Việt Anh cảm nhận trong hình dung.

Lên lớp 9, đôi mắt Việt Anh không còn cảm nhận được bất cứ cái gì xung quanh nữa. Việt Anh đau đớn nghĩ đến việc phải nghỉ học. Một ngày… hai ngày… rồi ba ngày… không đến lớp, ngồi thẫn thờ bên góc học tập, nước mắt chảy dài. Lời giảng của thầy, cô, tiếng đọc bài của các bạn, tiếng trống trường… cứ văng vẳng bên tai, thúc giục, làm bùng lên nỗi khao khát được học tiếp. Việt Anh lại năn nỉ ba đưa đến xin thầy, cô cho trở lại trường. Ba mẹ trở thành đôi mắt, giúp Việt Anh đọc từng trang sách, mô tả tỉ mỉ từng hình vẽ. "Khó nhất là môn hình học không gian, không thể nhìn thấy, chỉ còn cách căng đầu ra để tưởng tượng rồi nhờ ba mẹ vẽ lại vào vở" - Việt Anh bùi ngùi nhớ lại. Không biết ngoại ngữ, ba, mẹ giúp Việt Anh học bằng cách đánh vần từng âm tiết một.

Nhờ tình thương vô bờ của ba mẹ, sự giúp đỡ của thầy, cô giáo và bè bạn cộng với sự nỗ lực của mình, nhiều năm liền Việt Anh dẫn đầu lớp về kết quả học tập, đạt học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp huyện trong nhiều kì thi. Với những thành tích đó, Việt Anh được đặc cách trong kì thi tốt nghiệp THPT.

Cầm tấm bằng tốt nghiệp, Việt Anh hụt hẫng đến tận cùng: Không có cơ hội vào được đại học. Thời điểm ấy chưa có trường đại học nào đồng ý nhận hồ sơ của thí sinh khiếm thị. Nỗi đau chồng chất nỗi đau. Tất cả vỡ òa thành những trang thơ, truyện ngắn mà thi thoảng trên đài Tiếng nói Việt Nam, báo Hoa Học Trò vẫn thấy nhắc đến những tác phẩm của Việt Anh. Dù sống trong vòng tay yêu thương, che chở của ba mẹ, sự động viên an ủi của bè bạn, thầy, cô, song khát vọng được vươn lên hòa nhập với cộng đồng không lúc nào nguôi…

Niềm tin-ánh sáng

Thế rồi một ngày Việt Anh được đến với Hội Người mù. Ở đây, những tình cảm chân thành, niềm lạc quan của những người cùng cảnh ngộ đã giúp Việt Anh có thêm niềm tin và nghị lực. Cũng tại nơi đây, lần đầu tiên Việt Anh biết đến chữ nổi. Một niềm tin lóe sáng. Cô hạnh phúc vô cùng khi biết rằng mình vẫn còn cơ hội làm việc có ích.

Được sự giới thiệu của Hội Người mù tỉnh Hà Tĩnh, Việt Anh đến học tại Trung tâm Đào tạo và phục hồi chức năng cho người mù ở Hà Nội. Với kết quả học tập xuất sắc, Việt Anh được giữ lại làm giáo viên của Trung tâm. Học viên hầu hết đều hỏng mắt, gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống với trình độ và tâm lý khác nhau, thậm chí có người còn chưa một lần đến trường. Hiểu hơn ai hết niềm khao khát đến với ánh sáng văn hóa, những mặc cảm, tủi thân của người đồng tật, Việt Anh đã đem hết sức mình, tình yêu thương và nhiệt huyết để giảng dạy. Nhiều học viên nhờ thế mà thêm yêu cuộc sống, quên đi nỗi mặc cảm, mất mát của bản thân mình vươn lên trong học tập, hòa nhập và trở thành người có ích cho xã hội.

Khao khát đến với giảng đường đại học vẫn bùng cháy trong trái tim Việt Anh. Bởi Việt Anh nghĩ, mình chỉ có thể giúp được chính mình, giúp những người bạn đồng tật hòa nhập được với cộng đồng khi có kiến thức.

Qua tìm hiểu, năm 1999 Việt Anh đã dự thi vào hệ tại chức khoa Quản lý xã hội của Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Thêm những ngày vất vả trôi qua. Sáng sáng lên lớp chép bài bằng chữ nổi, tối về dò dẫm đọc lại từng dòng, từng chữ, đến ngày thi mang theo chiếc máy chữ cũ kỹ đến lớp trả bài. Thoáng thấy Việt Anh đang lên lớp giảng bài cho người mù ở Trung tâm, thoắt đã thấy Việt Anh ngồi sau lưng bác xe ôm để đến giảng đường. Tối về, lại đến từng phòng, kiểm tra bài vở, giải đáp những thắc mắc và động viên các học viên. Thật khuya, Việt Anh mới dành thời gian cho những sinh hoạt cá nhân, học bài và chuẩn bị giáo án cho ngày mai lên lớp. Mỗi ngày với Việt Anh thường bắt đầu rất sớm và kết thúc thật muộn. Cứ như thế, Việt Anh cần mẫn như con tằm nhả tơ. Hiếm thấy môn học nào của chị dưới điểm 8.

Cũng từ những buổi lên lớp ấy, giáo án dạy vi tính cho người mù dựa trên chương trình đọc màn hình hỗ trợ cho người khiếm thị ra đời. Chỉ cần một chiếc máy vi tính gắn kết bộ phận hỗ trợ, Việt Anh và những học viên của mình có thể giao lưu, trao đổi và bổ sung cho nhau rất nhiều kiến thức bổ ích trong cuộc sống. Việc dạy, học vi tính ở Trung tâm bớt khó khăn và hiệu quả hơn.

Với đề tài khóa luận: "Thực hiện chính sách giáo dục cho người mù tại Việt Nam" đạt điểm 10, Việt Anh đã tốt nghiệp đại học với điểm xuất sắc, dẫn đầu lớp (86,8 điểm).

Tự nhận mình là người "tham lam" với những kiến thức mới, Việt Anh lại tiếp tục dự tuyển vào khoa tiếng Anh, Viện đại học Mở, Hà Nội với hy vọng hòa nhập xu hướng phát triển chung của xã hội, dùng tiếng Anh để tiếp cận với công nghệ thông tin và những nguồn tri thức khác của nhân loại. Tận sâu thẳm trái tim mình, Việt Anh còn ấp ủ nguyện vọng: Thông qua ngôn ngữ này, tiếp cận với một số tổ chức, cá nhân trên thế giới để họ hiểu hơn, xích lại gần hơn với những người khiếm thị, người tàn tật Việt Nam.

Mơ ước của Việt Anh là được học tiếp lên cao học. Bởi theo Việt Anh những người khiếm thị nói chung và những người tàn tật nói riêng là một nhóm công chúng đặc biệt, phải bằng mọi cách giúp cho nhóm bộ phận này hòa nhập được với cộng đồng và cũng chính là giúp mình.

"Chưa bao giờ mình thấy chán học. Mình luôn ao ước giá như thời gian dài thêm nữa để có thể học được thật là nhiều. Bởi kiến thức mình có còn quá ít". Với ý nghĩ đó, Việt Anh luôn cố gắng học tập, nâng cao trình độ và chuyên môn, hoàn thành tốt trách nhiệm của một người giáo viên, đảng viên trong mọi hoàn cảnh dù hiện tại cuộc sống của chị vẫn gặp rất nhiều khó khăn.

NGUYỄN VÂN