Mới đây, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, đưa ra những giải pháp đồng bộ để phát triển KTTN lành mạnh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Để nghị quyết đi nhanh vào cuộc sống, sẽ còn rất nhiều việc phải làm.

Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta về KTTN

Khái niệm KTTN được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Cả hai thành phần kinh tế trên thuộc cùng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; tuy nhiên, quy mô sở hữu là khác nhau. KTTN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa.

Ở nước ta, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, vị trí, vai trò của KTTN ngày càng được khẳng định. Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), nền kinh tế nhiều thành phần đã được thừa nhận chính thức trong Văn kiện Đảng. Tuy nhiên lúc này, KTTN nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung vẫn được coi là đối tượng phải “cải tạo”, bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan nóng vội. Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng ta đã đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho KTTN phát triển. Văn kiện Đại hội VII khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà luật pháp không cấm”. Tại Đại hội VIII (tháng 6-1996), Đảng ta khẳng định việc đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, đồng thời cần tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài.

leftcenterrightdel
Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Ảnh minh họa: TTXVN 

Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của KTTN thể hiện trong Văn kiện Đại hội IX (tháng 4-2001), khi Đảng ta khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.  

Tại Đại hội X (tháng 4-2006) của Đảng, KTTN chính thức được xác nhận là một thành phần kinh tế trên cơ sở hợp nhất hai thành phần kinh tế: Cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Văn kiện Đại hội nêu rõ: “KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Đại hội đã thông qua quyết định rất quan trọng là cho phép đảng viên được làm KTTN. Đại hội XI (tháng 1-2011) của Đảng tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế.  

Một trong những điểm mới quan trọng ở Đại hội XII so với các kỳ đại hội trước của Đảng ta là vấn đề phát triển KTTN. Văn kiện Đại hội nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế… Khuyến khích hình thành các tập đoàn KTTN đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”. Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương đã thông qua Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3-6-2017 “Về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết là bước tiến mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển cho khu vực KTTN và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

KTTN phát triển nhanh nhưng chưa mạnh

 Theo đánh giá của Ban Chấp hành Trung ương, trong những năm qua, nhận thức của chúng ta về vị trí, vai trò của KTTN đã có những bước tiến quan trọng. Từ chỗ kỳ thị, coi nhẹ đã thừa nhận KTTN "là một động lực quan trọng" để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Quốc hội, Chính phủ đã quan tâm thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách xây dựng khung pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn, bình đẳng hơn cho KTTN phát triển. Trên thực tế ở nước ta, khu vực KTTN có tốc độ phát triển nhanh hơn các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế, chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cả nước. Nếu như năm 2002, khu vực KTTN chiếm 27%, năm 2010 chiếm 42,96%, thì đến năm 2015 đã chiếm 43,22% GDP cả nước.

Hiện nay, khu vực KTTN thu hút gần 85% lực lượng lao động cả nước, hằng năm tạo ra khoảng 1 triệu việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, đặc biệt là tạo việc làm mới cho những đối tượng bị giảm biên chế hoặc mất việc làm do quá trình tinh giản bộ máy hành chính, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hay dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, 7 tháng đầu năm nay, cả nước có 72.953 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 690,7 nghìn tỷ đồng, tăng 13,8% về số doanh nghiệp và tăng 39% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh đó, còn có 17.549 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 7 tháng lên hơn 90,5 nghìn doanh nghiệp. Đa số doanh nghiệp nói trên thuộc về KTTN.

Tuy nhiên, KTTN ở Việt Nam hiện nay tuy phát triển nhanh nhưng vẫn chưa mạnh, chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thành phần chủ yếu vẫn là kinh tế hộ gia đình, cá thể (chiếm khoảng 95%) và doanh nghiệp có quy mô nhỏ (hơn 90% có mức vốn dưới 1 tỷ đồng), trình độ công nghệ thấp và chậm đổi mới, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh còn thấp, trình độ quản trị, tính liên kết còn yếu; khả năng tham gia chuỗi giá trị trong nước và quốc tế còn thấp. Rất nhiều doanh nghiệp tư nhân vừa mới ra đời đã phải ngừng hoạt động, giải thể hoặc phá sản.

Cũng theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 7 tháng năm 2017 của cả nước là 6.608 doanh nghiệp, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, có 2.705 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (chiếm 40,9%); 1.936 công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (chiếm 29,3%); 1.116 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 16,9%) và 851 công ty cổ phần (chiếm 12,9%). Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 7 tháng năm 2017 là 43.274 doanh nghiệp, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước .  

Theo báo cáo của các cơ quan chức năng quản lý nhà nước thì hiện vẫn còn nhiều doanh nghiệp của tư nhân không bảo đảm lợi ích của người lao động, nợ bảo hiểm xã hội, báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, trốn thuế và nợ thuế kéo dài. Xuất hiện những quan hệ không lành mạnh giữa các doanh nghiệp của tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước, can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành "lợi ích nhóm", gây hậu quả xấu về kinh tế-xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân.

Để KTTN phát triển nhanh, bền vững và đúng hướng

Phát triển KTTN lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Để KTTN phát triển lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như mục tiêu của Nghị quyết số 10-NQ/TW, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp mà nghị quyết đã nêu ra, trong đó cần ưu tiên một số giải pháp sau đây:

Trước hết, phải xóa bỏ ngay mọi rào cản, định kiến về KTTN. Để làm được điều này, cơ quan nhà nước các cấp theo thẩm quyền cần khẩn trương ban hành khung pháp lý, cơ chế, chính sách nhằm cụ thể hóa và củng cố định hướng chính sách khuyến khích phát triển KTTN theo Nghị quyết số 10-NQ/TW và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông qua. Trong đó phải tập trung vào việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để bảo đảm chính sách hỗ trợ KTTN một cách thực chất, thông qua các chính sách hỗ trợ về lãi suất, ưu đãi về thuế, đất đai, giải phóng mặt bằng... Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Thực hiện công khai minh bạch các quy hoạch, kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng. Khắc phục triệt để tình trạng các doanh nghiệp lớn chi phối, lấn át các doanh nghiệp nhỏ trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội.

Thứ hai, chính quyền địa phương các cấp cần giải quyết kịp thời các vướng mắc, khiếu nại, kiến nghị của các chủ thể KTTN trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Tăng cường tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, công bố số điện thoại đường dây nóng, hộp thư điện tử để tiếp nhận và trả lời, giải đáp những vướng mắc kịp thời của doanh nghiệp, hộ kinh doanh ở các cấp, ngành. Thực hiện triệt để cải cách hành chính, tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, bộ, ngành và chính quyền địa phương theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KTTN.

 Thứ ba, Nhà nước tạo điều kiện để KTTN tham gia vào quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước thông qua việc góp vốn, mua cổ phần; thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp của tư nhân... Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho KTTN tham gia cung cấp dịch vụ công. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.

Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị. Trong đó, chú trọng chất lượng, hiệu quả đào tạo; đào tạo có trọng tâm, trọng điểm và ưu tiên đào tạo nhân lực cho khu vực KTTN trong một số ngành, lĩnh vực theo đặt hàng của doanh nghiệp. Các chương trình hướng nghiệp, giáo dục kinh doanh phải được giới thiệu và phổ biến ở bậc phổ thông.

Thứ năm, phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của KTTN, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện của "chủ nghĩa tư bản thân hữu", quan hệ "lợi ích nhóm", thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi bất chính.

ĐỖ PHÚ THỌ