Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Tôn từ một công nhân, người lính thợ đến tổ chức đấu tranh cách mạng, từ ngục tù Côn Đảo đến tham gia kháng chiến và trải qua các chức vụ quan trọng Đảng, Nhà nước, Mặt trận cho đến khi làm Chủ tịch nước, vẫn luôn luôn toát lên sự khiêm tốn, giản dị của một một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và điển hình của tinh thần đại đoàn kết dân tộc.
Tấm gương sáng về đạo đức cách mạng
Vốn là người có tư chất thông minh, giỏi tiếng Pháp, đầy khát vọng tự do, tính tự lập cao, thương người, lại có thiên bẩm sành về kỹ thuật cơ khí, nên ngay từ năm 1907, Tôn Đức Thắng đã lên Sài Gòn bắt đầu cuộc sống làm thợ và trở thành hạt nhân lãnh đạo các cuộc đấu tranh bãi khóa của học sinh Trường Bá Nghệ, là người tổ chức các cuộc bãi công của công nhân Ba Son năm 1912. Sau cuộc đấu tranh này, để tránh sự lùng bắt của thực dân Pháp, Tôn Đức Thắng "đã bị buộc phải cải trang và thay đổi tên, họ, trốn tránh trên một chiếc tàu thuỷ của Pháp đúng vào lúc cuộc bãi công của học sinh Trường Bá nghệ Sài Gòn và của công nhân Ba Son giành được thắng lợi. Năm 1916, Tôn Đức Thắng trở thành lính thợ làm việc trên chiến hạm France. Ngày 20-4-1919, sau khi tổ chức và tham gia kéo cờ đỏ phản chiến của Hải quân Pháp ở Biển Đen ủng hộ nước Nga Xô viết, anh bị trục xuất khỏi nước Pháp và trở lại Sài Gòn tích cực hoạt động cách mạng.
 |
Bác Hồ và Bác Tôn chụp ảnh với gia đình đồng bào dân tộc thiểu số đến chúc mừng Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh- Liên Việt (năm 1951). Ảnh tư liệu.
|
Tôn Đức Thắng là người hành động theo cách mạng vô sản trước khi đến với chủ nghĩa cộng sản. Và cũng vì thế mà lý tưởng đạo đức cách mạng mà Bác Tôn theo đuổi cũng chính là lý tưởng đạo đức của chủ nghĩa cộng sản. Các phẩm chất đạo đức cách mạng của Tôn Ðức Thắng được hình thành dần dần, củng cố, hoàn thiện và phát huy thông qua thực tiễn cách mạng.
Liên tục những năm 1927, 1928, 1929, Tôn Đức Thắng là Ủy viên Thành bộ Sài Gòn và Ủy viên Kỳ bộ Nam Kỳ, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được phân công phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ lớn. Trung tuần tháng 7-1929, Tôn Đức Thắng bị địch bắt tại Sài Gòn. Chúng coi đồng chí là loại tù nguy hiểm, cần phải nhốt riêng, không cho liên lạc với ai, nên đã đưa vào khám vị thành niên. Một năm sau đó, Tòa đại hình kết án Tôn Đức Thắng 20 năm tù khổ sai và tháng 6-1930, bị chúng đày ra Côn Đảo với số tù 5289.
15 năm tù đày ở nhà tù Côn Đảo (1930-1945) là một bản anh hùng ca thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất kiên cường với kẻ địch và tình cảm nồng thắm, đầy tính nhân văn với đồng đội và với những người tù khác. Bị liệt vào loại tù nguy hiểm, vừa ra tới Côn Đảo, Tôn Đức Thắng đã bị bọn chủ ngục giam vào cầm cố ở "Sở tải" thuộc Banh I (hầu hết là tù nặng án thuộc loại hình sự và rất hung dữ). Bằng tình cảm chân thành, chan hòa và lý tưởng cộng sản cao cả, Tôn Đức Thắng đã dần dần cảm hóa bọn tù lưu manh ở Sở tải. Trong lao tù, Tôn Đức Thắng vẫn tìm cách truyền hơi ấm của tình đồng chí, đồng đội, truyền ngọn lửa cách mạng của người cộng sản kiên trung tới những người cùng cảnh ngộ; dạy họ học văn hóa, học tiếng Pháp....
Để khống chế, hạn chế tầm ảnh hưởng của Tôn Đức Thắng đối với những tù nhân khác, bọn chủ ngục đã bắt đồng chí phải làm “cặp rằng”, với âm mưu mượn tay những người tù lưu manh giết Tôn Đức Thắng. Trước tình cảnh đó, đồng chí đã khôn khéo đấu tranh, thực hiện một cuộc "cách mạng" ở đây; đã kiên trì giáo dục, giác ngộ, dìu dắt anh em tù đứng lên đấu tranh đòi cải thiện chế độ làm việc nặng nhọc, sinh hoạt khổ sở của người tù bị nhốt trong Hầm xay lúa. Hơn nữa, lợi dụng chức vụ "cạp rằng", Tôn Đức Thắng đã thực hiện thông tin liên lạc giữa các khám và các banh với nhau. Đây là công việc rất nguy hiểm, vì nếu bị phát hiện địch sẽ có những hình phạt tàn khốc.Vì hoạt động tích cực và có tầm ảnh hưởng sâu rộng tới các tù nhân khác, nên cũng chính tại nhà tù Côn Đảo, Tôn Đức Thắng đã được chi bộ Đảng kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia Ban lãnh đạo nhà tù.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Tôn Đức Thắng thoát khỏi nhà tù, gông xiềng đế quốc. Vừa đặt chân đến đất liền thì cuộc kháng chiến bùng nổ, đồng chí lại tham gia ngay vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Do tình hình và yêu cầu cấp bách của cách mạng, đồng chí chưa thể về thăm vợ con, mà đến ngay Cần Thơ nhận nhiệm vụ và phải đến năm 1954, tại Hà Nội, gia đình Bác mới được hội ngộ. Đây là một hình ảnh tiêu biểu cho tấm gương hết lòng vì sự nghiệp cách mạng, “vì nước quên nhà” của Bác Tôn.
Trong vòng 35 năm (1945 - 1980), đồng chí Tôn Đức Thắng đã giữ nhiều chức vụ trọng trách trong Ðảng, Chính phủ, Quốc hội, Mặt trận như: Tổng Thanh tra của Chính phủ, Quyền Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Trưởng Ban Thi đua ái quốc Trung ương, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Liên Việt toàn quốc, Hội trưởng Hội Hữu nghị Việt Nam - Liên Xô, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Chủ tịch nước… Ở cương vị trọng trách nào, đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, cùng Trung ương Ðảng, Chính phủ, Quốc hội và Mặt trận lãnh đạo nhân dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng.
Điển hình tiêu biểu của tinh thần đại đoàn kết
Đối với Bác Tôn, tình cảm yêu nước gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản chân chính. Đồng chí là người công nhân Việt Nam đầu tiên đi đến chủ nghĩa quốc tế vô sản và có những cống hiến to lớn trong việc xây dựng khối đoàn kết quốc tế, giữ gìn và củng cố hòa bình thế giới. Giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định: "Điều đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời Chủ tịch Tôn Đức Thắng là tàn cuộc chiến tranh thế giới (1914 - 1918), trong sự kiện lớn nhất của thế kỷ, Tôn Đức Thắng đã biết lựa chọn một chỗ đứng chính trị làm vinh dự cho giai cấp công nhân Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam, chỗ đứng chính trị đó là ủng hộ Cách mạng Tháng Mười, bảo vệ chính quyền Xô-viết Nga bằng hành động phản chiến - kéo cờ đỏ trên một chiến hạm Pháp trong số các chiến hạm đang tiến đánh nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên".
Sự cống hiến của Bác Tôn cho nền độc lập dân tộc và hòa bình thế giới đã được nhân dân thế giới kính mến. Bác Tôn là người Việt Nam đầu tiên được nhận Giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin, xứng đáng là một chiến sĩ xuất sắc của phong trào hòa bình thế giới, từ đó góp phần quan trọng vào củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế của nhân dân Việt Nam.
Tính từ sự kiện năm 1919 đến khi từ trần năm 1980, đồng chí Tôn Đức Thắng đã có hơn 60 năm cống hiến trọn vẹn, liên tục cho phong trào cách mạng thế giới, xứng đáng là một trong những lãnh tụ tiêu biểu của tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, thủy chung. Trong Điện chia buồn của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng qua đời, có đoạn: ''Đồng chí Tôn Đức Thắng..., người con trung thành của nhân dân Việt Nam, người bạn chiến đấu của đồng chí Hồ Chí Minh, người chiến sĩ quốc tế kiên cường, người bạn lớn của Liên Xô, người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp hòa bình và chủ nghĩa xã hội".
Không chỉ là hiện thân, điển hình của tinh thần quốc tế vô sản chân chính, Tôn Đức Thắng còn là tiêu biểu cho sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc. Trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” của tình thế cách mạng Việt Nam đầu năm 1946, nhiệm vụ cực kỳ quan trọng lúc đó là phải đoàn kết được toàn dân tộc nhằm cô lập kẻ thù, góp phần bảo vệ thắng lợi thành quả của Cách mạng Tháng Tám, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Hồ Chí Minh và Đảng tin tưởng giao trọng trách là là Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam. Sau khi Hội trưởng Huỳnh Thúc Kháng qua đời (năm 1947), đồng chí được tín nhiệm làm nhiệm Hội trưởng Hội Liên Việt. Là người Miền Nam lần đầu tiên sống trên đất Bắc với khí hậu thay đổi thất thường, bệnh tật do hậu quả những tháng bị tù đầy, tra tấn, song Bác Tôn vẫn kiên trì thực hiện khẩu hiệu: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đồng chí đã không quản ngại khó khăn vượt đèo, lội suối, gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều nhân sĩ, trí thức, đại diện lãnh đạo các đảng phái, chức sắc, các tôn giáo nhằm làm cho mọi người nhận thức rõ thời cuộc, chính sách của Chính phủ kháng chiến và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc chống thực dân xâm lược.
Trong phiên họp ngày 8-11-1946, kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, khai mạc tại Nhà hát Lớn Hà Nội, khi Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh nói lời từ chức, trao quyền để Quốc hội lựa chọn người đứng ra thành lập Chính phủ mới, đồng chí Tôn Đức Thắng lập tức đứng lên phát biểu giới thiệu Hồ Chí Minh là người xứng đáng nhất đứng ra thành lập Chính phủ mới. Đây không chỉ là lời đề cử của cá nhân Bác Tôn, mà chính là lời tín nhiệm của đông đảo người dân Nam Bộ đang ngày đêm đấu tranh cho nền độc lập, thống nhất đất nước, dành cho Cụ Hồ.
Sau sự đề cử này, Quốc hội đã đồng ý để Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đứng ra thành lập Chính phủ mới. Sự kiện này đã làm phá sản âm mưu của nhóm đại biểu Quốc hội trong các đảng phái phản động, vì họ đã chuẩn bị một “danh sách tân chính phủ” gồm không ít kẻ cơ hội, núp bóng ngoại bang, phản bội lại lợi ích của dân tộc.
Là người lãnh đạo liên tục và lâu năm nhất của MTTQ Việt Nam (từ tháng 9-1955 đến tháng 2-1977), Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã góp phần to lớn vào nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, đoàn kết toàn dân, quyết tâm thực hiện các mục tiêu trong xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Tôn Đức Thắng khẳng định: Đảng phải phát huy chủ nghĩa yêu nước, phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc, phải phân tích, nắm vững và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, mối quan hệ giữa lợi ích toàn thể và bộ phận, nhằm xác định đúng “những điểm chung cho toàn thể dân tộc”.
Để thực hiện thành công khối đại đoàn kết dân tộc thì vai trò của Đảng là vô cùng quan trọng, vì thế đồng chí Tôn Đức Thắng nhấn mạnh: Đảng phải là hạt nhân đoàn kết và phải luôn nêu cao sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, vấn đề hàng đầu để đoàn kết toàn dân là phải đoàn kết từ trong nội bộ Đảng và sự đoàn kết đó không chỉ là sự thống nhất tư tưởng, hành động trong thực hiện đường lối của Đảng mà còn là tình cảm tôn trọng, yêu mến, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người đảng viên cộng sản. Bác Tôn cũng phê phán những quan điểm sai lầm cho rằng “công tác mặt trận do ngành mặt trận chuyên trách”, đồng thời khẳng định, công tác xây dựng, củng cố, phát triển mặt trận là nhiệm vụ “toàn Đảng phải chăm lo”.
Năm 1958, nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của đồng chí Tôn Đức Thắng (20-8), Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tặng Bác Tôn Huân chương Sao Vàng. Tại lễ trao tặng, trước khi gắn Huân chương Sao Vàng lên ngực áo Bác Tôn, Bác Hồ rất vui và xúc động phát biểu: “… Là một chiến sĩ cách mạng dân tộc và chiến sĩ cách mạng thế giới, đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách mạng Tháng Mười vĩ đại...Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân... Thay mặt nhân dân và Chính phủ, tôi trân trọng trao tặng đồng chí Tôn Đức Thắng Huân chương Sao Vàng, là huân chương cao quý nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà đồng chí Tôn Đức Thắng là người đầu tiên và là người rất xứng đáng được tặng Huân chương ấy”.
Lời phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói lên tất cả về phẩm chất đạo đức cách mạng, về sự cống hiến của Bác Tôn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng và cho nền hòa bình, phong trào cách mạng thế giới nói chung.
PGS, TS NGUYỄN XUÂN TRUNG, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh