Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”.
Quan điểm “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” của Đảng ta là sự kế thừa tư tưởng giữ nước mang tính truyền thống của dân tộc trong điều kiện mới, đồng thời thể hiện tư duy, nhận thức mới của Đảng về phương thức, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, về không gian là bảo vệ từ bên ngoài biên giới lãnh thổ; về thời gian là bảo vệ từ trước, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ Tổ quốc ngay trong thời bình, khi đất nước chưa nguy, lấy việc phòng ngừa từ trước, chuẩn bị từ trước làm chủ yếu, theo phương châm không cần tiến hành chiến tranh là thượng sách.
Ngày nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của ta được thực hiện trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường; tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, biên giới, biển đảo, nhất là ở Biển Đông diễn ra gay gắt; các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”; nước ta ngày càng hội nhập quốc tế sâu, rộng... Trong bối cảnh đó, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, tư duy mới của Đảng về chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Theo đó, cần tập trung làm tốt một số nội dung, biện pháp như sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây là quan điểm nhất quán, xác định nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, chỉ rõ sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng; các thế lực thù địch tìm mọi cách để chống phá thì việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc càng cần phải được coi trọng. Đó cũng là nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), khi xác định mục tiêu bảo vệ Tổ quốc, ngoài mục tiêu chung, còn nhấn mạnh các mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt, trong đó, mục tiêu đầu tiên là: “Tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là vấn đề có tính nguyên tắc; tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn nhất định, phải xác định đúng những yêu cầu, nội dung và phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và phải được tiến hành đồng bộ trong quá trình đổi mới gắn với hệ thống chính trị, với phát huy dân chủ cơ sở, kiện toàn và củng cố hoạt động của các tổ chức đảng, đồng thời phải cụ thể hóa, thể chế hóa thành luật, điều lệ, quy chế, nguyên tắc...
Hai là, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ở nước ta. Đó là sự kết tinh, phản ánh sức mạnh của chế độ chính trị, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của trí tuệ và sức lực con người Việt Nam, của truyền thống dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là nền tảng vững chắc để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, là sức mạnh nguồn cội để từ đó phát huy cao độ ý chí tự chủ, tự cường của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân thành một khối vững chắc, với niềm tin, sự quyết tâm không gì lay chuyển nổi trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: "Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Bên cạnh đó, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đây là một chủ trương, chiến lược, sách lược đúng đắn nhằm củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở chủ trương, chiến lược đó, chúng ta sẽ huy động và kết hợp được sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài tạo ra tiền đề thuận lợi cho việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Sự kết hợp đúng đắn những nỗ lực của dân tộc, những khả năng và sức mạnh trong nước với sự giúp đỡ của quốc tế đã và đang làm cho sức mạnh của chúng ta được nhân lên gấp bội.
Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu dự báo chiến lược. Chủ động bám sát tình hình, thực hiện tốt công tác nghiên cứu dự báo chiến lược là vấn đề quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vì có nắm chắc tình hình, dự báo chính xác xu hướng phát triển, nhất là tình hình liên quan trực tiếp đến quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thì mới đề ra được đối sách kịp thời, hiệu quả. Thời gian qua, công tác nghiên cứu dự báo chiến lược đã đạt được những kết quả tích cực, đưa ra những dự báo sâu, chính xác, phục vụ kịp thời việc hoạch định đường lối quốc phòng, quân sự, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ; tuy nhiên, còn bộc lộ hạn chế ở một số nội dung và trong một vài thời điểm dự báo chưa thật sát dẫn tới xử lý vụ việc chậm, lúng túng, hiệu quả thấp.
Trước những biến động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, đối tượng và đối tác đan xen như hiện nay, đòi hỏi công tác nghiên cứu dự báo chiến lược phải tăng cường công tác nắm tình hình, tập trung nghiên cứu, đánh giá, phân tích và dự báo chiến lược chính xác. Đặc biệt, cần chú ý đánh giá chính xác, kịp thời về đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam; dự kiến các tình huống chiến lược có thể xảy ra... Từ đó, đề xuất chủ trương, giải pháp có tính hệ thống, toàn diện, khả thi, nhằm chủ động phòng ngừa, xử lý thắng lợi các tình huống về quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ về chiến lược, không để các thế lực thù địch lợi dụng làm phức tạp tình hình; đồng thời, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng lực lượng, tổ chức thế trận, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, nhất là trên các hướng và địa bàn chiến lược.
Bốn là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là công việc giữ nước của quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động về mọi mặt: Chính trị, kinh tế, quân sự gắn với an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Phương châm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, từng bước hiện đại, vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh trong thời bình, tạo sức mạnh ngăn chặn âm mưu gây chiến của kẻ thù, vừa đáp ứng yêu cầu chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Các nội dung của phương châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân có quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, trong đó xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo hướng hiện đại là một nội dung rất quan trọng, vừa thể hiện yêu cầu của nền quốc phòng, thể hiện lộ trình hiện đại hóa nền quốc phòng toàn dân vừa phù hợp kinh tế đất nước và yêu cầu mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Ðảng ta về sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh tổng hợp, không chỉ đơn thuần hoặc chủ yếu là sức mạnh quân sự. Ðảng ta luôn có nhận thức đúng đắn về tiềm lực, thế trận và lực lượng của nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng tiềm lực quốc phòng mạnh phải đồng bộ, nhiều lực lượng, nhiều lĩnh vực, cả tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự, đặc biệt là tiềm lực chính trị-tinh thần. Phải thường xuyên coi trọng xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh, thế trận quốc phòng vững chắc ngay từ khi “nước chưa nguy”, tức là ngay trong thời bình. Phải chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức làm nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên phạm vi cả nước và từng địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược, trọng điểm. Trong đó, trọng tâm là xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững mạnh.
Năm là, đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Quán triệt và tổ chức thực hiện đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo đường lối, quan điểm của Đảng, coi hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là định hướng chiến lược và kế sách để bảo vệ Tổ quốc từ xa. Công tác đối ngoại quốc phòng phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị về "Hội nhập quốc tế", Nghị quyết 806 của Quân ủy Trung ương về "Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo". Mục tiêu nhất quán và xuyên suốt của hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng là duy trì môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Quân đội nhân dân Việt Nam phải phát huy vai trò của một thành viên tích cực, chủ động trong các thể chế quân sự, quốc phòng khu vực và toàn cầu; triển khai sâu rộng các hoạt động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về đối ngoại quốc phòng bằng nhiều biện pháp và hình thức nhằm quảng bá hình ảnh đất nước, con người và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, nhân văn và yêu chuộng hòa bình. Xây dựng tốt mối quan hệ hòa bình, hữu nghị với tất cả các nước, sử dụng các mối quan hệ này để đấu tranh chống các thế lực thù địch với Việt Nam. Khai thác tốt mọi sự giúp đỡ của các nước trong bảo vệ Tổ quốc ngoài lãnh thổ Việt Nam; xây dựng mối quan hệ láng giềng với các nước xung quanh theo tinh thần láng giềng thân thiện, anh em đoàn kết, quốc gia hữu nghị, cùng chia sẻ trách nhiệm trong bảo vệ Tổ quốc; xử lý khôn khéo vấn đề “đối tác”, “đối tượng”, “bạn”, “thù” với các nước...
Đại tá VŨ HỒNG KHANH
(*) Viện Chiến lược Quốc phòng