Lời hiệu triệu cất lên đúng vào “thời khắc vàng” khi ách cai trị của đế quốc Nhật rời khỏi Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Bước ngoặt lịch sử diễn ra do chiến dịch tấn công bất ngờ của Liên Xô đánh tan đạo quân thiện chiến nhất của Nhật thời điểm đó, thúc đẩy Tokyo chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.

Là vùng đất phì nhiêu, địa thế tự nhiên hiểm trở, rộng tương đương diện tích của nước Đức và Italy cộng lại, vào thời điểm tháng 8-1945, Mãn Châu được phòng thủ bởi đạo quân Quan Đông tinh nhuệ, với hơn một triệu binh sĩ, 6.640 pháo và súng cối, 1.215 xe tăng các loại và 1.907 máy bay, chia thành 17 cụm cứ điểm kiên cố. Để tránh máy bay Mỹ ném bom, vô số nhà máy vũ khí, kho tàng, thậm chí cả các cơ sở nghiên cứu vũ khí bí mật của đế quốc Nhật đã phải di dời sang đây. Đến đầu tháng 8-1945, cơ sở hạ tầng tại Mãn Châu vẫn trong tình trạng nguyên vẹn do không bị ném bom như các thành phố lớn trên 3 hòn đảo chính của Nhật Bản.

Quân Nhật hạ vũ khí ở Mãn Châu (ảnh trái) và quân dân Việt Nam tuần hành ở Hà Nội ngày 19-8-1945 (ảnh phải). Ảnh tư liệu.

Do đó, phe chủ chiến trong nội các Nhật kỳ vọng việc chiến đấu đến cùng trên chính quốc và vùng Mãn Châu sẽ khiến thương vong của quân đội Mỹ đủ lớn để nước này đạt được hiệp định ngừng bắn thay vì phải đầu hàng. Tuy nhiên, hy vọng đàm phán ấy tiêu tan khi nhà lãnh đạo Liên Xô Stalin đưa ra lời tuyên chiến vào đêm 8-8.

0 giờ 10 phút ngày 9-8, đồng bằng Mãn Châu rung chuyển bởi 1,5 triệu binh sĩ, hàng nghìn xe tăng, máy bay Liên Xô, mở màn trận chiến trên bộ quy mô lớn nhất mà đế quốc Nhật phải đối mặt trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngay lập tức, Hội đồng Tối cao Nhật Bản phải nhóm họp khẩn cấp, lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh nổ ra.

Những báo cáo về bom nguyên tử-thứ vũ khí hủy diệt mà Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima ngày 6-8 lúc này không còn quan trọng bằng hiện thực rằng nước Nhật không thể “lưỡng đầu thọ địch”, chống lại hai cường quốc thắng trận tấn công từ hai phía. Hơn nữa, tốc độ tiến công quá nhanh của Hồng quân Liên Xô khiến bản thân Nhật Hoàng Hirohito lo ngại các cứ điểm trên quần đảo Kuril và vùng lãnh thổ Nam Sakhalin sẽ nhanh chóng sụp đổ, tạo điều kiện cho Hồng quân đổ bộ lên những khu vực không được bảo vệ ở phía bắc và tây bắc đảo Hokkaido, hòn đảo lớn thứ hai của nước Nhật sớm hơn nhiều tháng trước khi trận “tử chiến” với Mỹ diễn ra. Những lo ngại đó nhanh chóng trở thành hiểm họa thực sự khi Nam Sakhalin bị tấn công vào ngày 11-8.

Đến ngày 15-8, bất chấp sự phản đối của hàng trăm tướng lĩnh yêu cầu chiến đấu đến người Nhật cuối cùng, Nhật Hoàng phát đi tuyên bố đầu hàng phe Đồng minh. Cùng ngày, bộ tư lệnh đạo quân Quan Đông ra lệnh cho các cứ điểm phòng ngự hạ vũ khí, tiến hành đàm phán với phía Liên Xô. Bộ máy cai trị của Nhật trên toàn bộ các thuộc địa, trong đó có Việt Nam lung lay và rệu rã trước diễn biến bất ngờ tại Đông Bắc Á. Nhận thấy rõ khoảng trống quyền lực này chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian ngắn trước khi đế quốc phương Tây tìm cách nhảy vào một lần nữa, Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam quyết định đứng lên lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.

Ngày 19-8, tin tức gửi về Tokyo từ Hà Nội cho biết quần chúng nhân dân, lãnh đạo bởi Việt Minh đã làm chủ phủ khâm sai, cơ quan đầu não của Nhật. Không còn chỗ dựa về tinh thần cũng như chính trị, bộ tư lệnh quân đội Nhật tại Việt Nam chấp nhận án binh bất động, không chống lại sức mạnh và khát khao giành độc lập, tự do của người dân Việt Nam. Trước đó ít giờ, Chính phủ Nhật Bản và bộ tư lệnh đạo quân Quan Đông cũng phát đi thông điệp đầu hàng vô điều kiện.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra thành công vang dội. Bước ngoặt lịch sử của dân tộc có được do vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đồng thời nắm bắt được thời cơ vô giá, được tạo ra bởi sức mạnh của Đảng Cộng sản, quân đội và nhân dân Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại.

ĐĂNG SƠN