Thống kê cho thấy, tăng trưởng giá trị sản xuất trong lĩnh vực công nghiệp 10 năm trở lại đây luôn cao nhất và ổn định, chiếm khoảng 33-38,5% tổng GDP của cả nước, góp phần cùng các lĩnh vực khác đưa Việt Nam từng bước thu hẹp khoảng cách về năng suất lao động (NSLĐ) trung bình hằng năm với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao. Việc đẩy mạnh sản xuất công nghiệp cũng mở ra cơ hội việc làm, kinh doanh cho người dân, doanh nghiệp; nâng cao kỹ năng và trình độ kỹ thuật cho người lao động; đưa các ngành công nghiệp Việt Nam tiến lên những bậc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Phát triển công nghiệp là nội dung quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước; là đòn bẩy để phát triển kinh tế-xã hội đất nước, bởi vậy, những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề để thúc đẩy phát triển công nghiệp đất nước. Để thực hiện thành công mục tiêu “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành công nghiệp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao có ý nghĩa sống còn đối với chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. 

Ảnh minh họa: baomoi.com.

Nhìn vào biểu đồ thống kê phát triển công nghiệp thời gian qua, lực lượng lao động sản xuất công nghiệp nước ta đã có sự phát triển về số lượng, chiếm khoảng 25% tổng số việc làm trong cả nước. Nhân lực ngành công nghiệp cũng đang ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tăng NSLĐ và hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế. Giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị gia tăng công nghiệp tăng trưởng liên tục trong 10 năm trở lại đây (riêng giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng bình quân 7,7%/năm), cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới ở cùng giai đoạn này (Hàn Quốc: 6,3%,  Thái Lan: 3,6%, Malaysia: 4,0%, Indonesia: 5,7%, Philippines: 4,1%, Mỹ: 1,9%, Nhật Bản: 1,2%...), đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, công nghiệp nước ta vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Năng lực cạnh tranh và khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu còn rất hạn chế; chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt. Sự thua kém này có nguyên nhân từ chất lượng nguồn nhân lực ngành công nghiệp của nước ta. Nếu tính tổng số lao động đang làm việc hiện nay, có đến 78,1% số lao động chưa được đào tạo để đạt chuẩn về trình độ chuyên môn kỹ thuật (với số lượng 42,4 triệu lao động). Năm 2011, tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ là 15,4%; năm 2018 mới chỉ đạt 21,9%. Hơn 2,1 triệu người trong cơ cấu lao động công nghiệp, mới chỉ có 18,1% lao động có trình độ từ sơ cấp nghề trở lên. Mặt khác, lực lượng lao động sản xuất công nghiệp lại đang có xu hướng gia tăng về quy mô lao động không có chuyên môn kỹ thuật, giảm lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có chứng chỉ nghề. Đây quả là sự thách thức cho tiến trình CNH, HĐH đất nước.

Để Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu như Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22-3-2018 của Bộ Chính trị về Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; ngoài cơ cấu lại ngành công nghiệp và các lĩnh vực ưu tiên phát triển, Việt Nam cần phải xây dựng một chính sách phát triển nhân lực công nghiệp đồng bộ. Trước tiên, tập trung quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật đạt trình độ quốc tế; nhất là đối với phát triển cơ sở đào tạo bậc đại học để tạo ra nguồn nhân lực công nghiệp mới có khả năng tiếp nhận và làm chủ các công nghệ sản xuất, kỹ thuật mới, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khuyến khích khu vực tư nhân và các doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực công nghiệp chất lượng cao; gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, đào tạo với hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động công nghiệp. Phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Cùng với xây dựng chính sách thu hút và sử dụng nhân tài có trình độ kỹ thuật chuyên môn cao, có năng lực đổi mới sáng tạo, nhất là đội ngũ chuyên gia là người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài về Việt Nam tham gia lao động sản xuất thì các chính sách liên thông thị trường lao động công nghiệp, định hướng dịch chuyển lao động, nhất là lao động từ khu vực nông nghiệp sang lao động công nghiệp cũng cần được tính đến để đáp ứng số lượng về nhân lực lao động công nghiệp và hấp thụ kiến thức, trình độ công nghệ của các nước tiên tiến. Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo, gắn đào tạo với thực tiễn, nhất là chú trọng đào tạo nghề, đào tạo nhân tài, thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp cũng sẽ tạo cú hích cho phát triển nhân lực và nâng cao NSLĐ. Trước mắt, Việt Nam cần có những trường kỹ thuật và công nghệ kết nối tốt với khu vực doanh nghiệp, tập trung đào tạo các ngành nghề liên quan đến các công nghệ mũi nhọn, như: STEM (khoa học tự nhiên, công nghệ, cơ khí, toán), robotic, kinh tế xanh, internet kết nối vạn vật, thiết kế trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, năng lượng và vật liệu mới... Quá trình đổi mới chính sách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù hợp giữa tăng tiền lương và tăng NSLĐ cũng cần được bảo đảm. Việc điều chỉnh, bổ sung các chính sách bảo đảm phúc lợi xã hội cho người lao động trong lĩnh vực công nghiệp (bao gồm cả chính sách về bảo hiểm, bảo hộ lao động, chính sách về nhà ở, về phúc lợi cho cán bộ, công nhân có trình độ kỹ thuật cao, công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao) để họ yên tâm công tác cũng sẽ góp phần thúc đẩy chất lượng lao động công nghiệp. Điều quan trọng nữa là không ngừng phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý, quản trị hiện đại và tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc, có đạo đức kinh doanh sẽ góp phần thay đổi chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp trong tương lai.

Mặc dù đã có nhiều thay đổi trong thời gian qua, tuy nhiên Việt Nam mới bước vào ngưỡng cửa của một xã hội mang nền văn hóa kinh doanh và khởi nghiệp. Bởi vậy, rất cần sự khuyến khích, tạo dựng môi trường sáng tạo cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để giúp họ hình thành ý chí tự thân lập nghiệp, sẵn sàng cho tương lai khi bước vào kỷ nguyên số. Chỉ như vậy, khát vọng về xây dựng đội ngũ công nhân Việt Nam có tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, có tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và gắn bó mật thiết với nhân dân, với đất nước mới có thể trở thành hiện thực trong thời gian tới.

HOÀNG GIA MINH