Bạn tôi hay hỏi: “Lúc nào cũng thấy cậu đi miền núi. Cậu đi làm gì vậy?”. Tôi chỉ cười. Ừ, đôi khi tôi cũng không biết trả lời bạn thế nào. Tôi có những công việc đã và vẫn đang, rồi sẽ còn liên quan đến miền núi, đấy là một phần thôi. Quan trọng, tôi chỉ cảm thấy tôi chính là tôi khi ở giữa núi rừng, cảm thấy đất đá rắn chắc dưới chân, cảm thấy trong gió có mùi của vỏ cây khô, mùi của những hạt thảo quả, mùi của những ngọn khói từ những nếp nhà dường như đã đứng đó cả triệu năm. Và đôi khi, một chiếc lá vàng từ đâu rụng xuống đậu lên vai, mang theo mấy cái lỗ thủng do bị sâu gặm. Núi rừng thân thuộc nhưng luôn mới mẻ và chứa đựng đầy những câu chuyện huyền bí, mà huyền bí lại đều do trí tưởng tượng mà ra.

 Minh họa: PHẠM HÀ

Sau nhà tôi hồi xưa có một cái khe núi. Nhà tôi đã ở gần khe núi rồi, nhưng vẫn chưa phải là nhà cuối cùng. Cuối cùng là một nhà người Tày, nằm tận cửa khe núi luôn. Đất bằng phẳng chỉ đủ dựng nhà, một khoảnh sân nhỏ để thả gà lợn, còn thì bước một bước là giẫm thẳng xuống suối. Chính là con suối chảy ra từ khe núi. Ông chồng tên là Biền, cậu con trai lớn tên là Bình. Vì thế cả làng gọi theo tên con là vợ chồng nhà Bình Biền. Bà vợ thì đến tận bây giờ tôi vẫn không biết tên. Vốn dĩ là cả ngôi làng Tày ấy, khi các cô gái về làm dâu nhà chồng, rồi làm mẹ, thì cái tên cha mẹ đặt cho đã biến mất gần như vĩnh viễn. Nó chỉ xuất hiện trở lại trên giấy tờ khi bọn trẻ con đi học hoặc đi làm.

Bà vợ Bình Biền tầm dưới bốn mươi tuổi. Da trắng, tóc dài và mềm, eo nhỏ, hông nở. Gái Tày đều thế, đẹp mướt mát như những bông bạch yến. Có lẽ vì sống ở vùng thấp, ruộng nước, khí hậu ôn hòa, ít phải leo núi, nên con gái Tày óng ả hơn hẳn. Bà Bình Biền hay ngồi ôm con trên sàn phơi lúa những buổi trưa hè. Nắng rọi từ trên cao, xuyên qua tán lá dẻ rậm rì xanh biếc, lớt phớt trên gương mặt hai mẹ con. Bà ấy hát, những câu dân ca Tày. Trong ký ức của tôi, tiếng hát ấy trong vắt, thanh thoát, tinh tế, ẩn chứa những buồn phiền rất khó diễn tả. Giống như là một giọt sương trong buổi ban mai rơi xuống phiến đá, vỡ ra. Tiếng vỡ của nó nhỏ tới nỗi người ta chỉ có thể cảm mà không thể nghe. Nhưng chỉ cảm thôi mà cũng thấy nhoi nhói một nỗi gì buồn phiền quá.

Sau này, đi xa rồi, có một lần quay về, tôi đến nhà thăm ông bà Bình Biền. Lúc ấy tôi làm báo rồi, và cứ say sưa đi nhặt nhạnh mọi thứ có trong đời sống của người Tày, người Mông, ghi ghi chép chép mà cũng không biết để làm gì. Nhưng cái việc nhặt nhạnh ấy khiến tôi vui thích vô cùng. Bà Bình Biền đã có tóc bạc rồi, tầm ngoài năm mươi. Với phụ nữ Tày thì năm mươi là già rồi, đã lên bà nội, bà ngoại cả rồi. Tôi hỏi ngày xưa cô hát những câu gì mà cháu nghe buồn quá, dù chẳng hiểu gì cả. Bà mỉm cười, hỏi thế thì làm sao cô nhớ được. Tôi lại hỏi, thế hồi trẻ cô hay hát gì? Hát những gì bọn con trai thích nghe. Ôi, thực lòng là tôi thấy câu trả lời thú vị quá. Bà Bình Biền lấy đàn tính ra, gảy một khúc, hát một khúc. Rồi bà đọc thơ. Bố bà vốn là người biết chữ nho bên Cao Bằng, nên con cái cũng được dạy dỗ ít nhiều. Tôi có biết bài thơ mà bà Bình Biền đang đọc:

Ôi người là cha mẹ

Công lao cúc dục lớn như biển cả

Đinh ninh nhớ cây tang cây tứ

Ta thất lễ vì thiếu tên trên bảng mai.


Bạn bè (hề) bạn bè

Gà còn có năm đức

Văn, vũ, dũng, tín, nhân

Ta còn mấy ai là bạn thân?


Tam thập (hề) nhi lập

Soi gương thấy Ban Siêu hiện lên

Ta chẳng là Phan Nhạc

Ta còn ngại én đã bay.

Đây là bản dịch bài “Cố hương từ” của Lê Thế Khanh, một tác giả người Tày ở Cao Bằng. Ông sống vào khoảng cuối thế kỷ thứ 4, đầu thế kỷ thứ 5. Bài thơ ấy có tư liệu cho là bài thơ chữ Hán ra đời sớm ở Việt Nam. Có thể nhiều người sẽ ngạc nhiên, nhưng thực sự là người Tày có dòng văn học bác học xuất hiện từ rất sớm.

Về bài thơ thì tôi không ngạc nhiên vì trong quá trình lọ mọ tìm hiểu đã biết từ trước, nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên nhất là người đọc nó lại là bà Bình Biền. Một người phụ nữ mà từ lúc trở thành hàng xóm nhà tôi cho đến bấy giờ chỉ thấy lên nương, ra ruộng, đẻ con chăm con, đêm đêm vừa xay lúa, vừa trông chảo cám lợn.

Tôi ngồi yên lặng trên sàn phơi lúa, dựa lưng vào cái cột cao ở góc sàn và buông thõng chân xuống dưới. Bên dưới là dòng nước đang rí rách chảy, trong leo lẻo, và mấy con ngan với mảng lưng đen thui đang quẫy đạp. Bà Bình Biền cứ nhẩn nha đọc thơ, rồi lẩm nhẩm hát. Tôi không hình dung được nếu như người Tày nói chung, phụ nữ, con gái Tày nói riêng mà không có dân ca Tày, không có đàn tính, không có hát then thì như thế nào. Giai điệu của then không khó, ai hát cũng được. Tôi cũng hát được. Nó không đòi hỏi quá cao về kỹ thuật hay phải có âm vực rộng. Nó cứ nhẩn nha, rí rách, loanh quanh trong đời sống, nhưng nó khiến cho tâm hồn người ta được bay bổng, vượt qua những vách núi hay những nếp nhà hàng trăm năm tuổi. Có lẽ vậy.

Khi tôi từ xa quay về làng, tôi nhận ra mỗi năm, từng năm một, những nếp nhà với mái lá cọ dày hàng gang tay đang lần lượt biến mất. Ngôi làng tuyệt đẹp của tôi, với những thửa ruộng thoai thoải biếc xanh; với những nếp nhà nằm nép sát chân núi, quanh nhà là hàng rào mắt cáo, bên trong trồng đầy các loại rau; với những cái cọn nước cứ cọt kẹt, cọt kẹt cả những cái cối nước nữa, thì thụp suốt ngày đêm... đang biến mất. Tôi từng ngồi hàng giờ nhìn cái cối nước. Một đầu là máng đựng nước, một đầu là chày dộng thẳng xuống cối mỗi khi đầu kia nước đầy, trĩu xuống, nước trút ra và đầu này rơi bụp xuống. Nhịp nhàng, miệt mài, không bao giờ mệt mỏi. Cứ ào, xòa, rồi bụp. Lại ào, xòa, bụp. Đúng cái nhịp điệu ấy.

Làng có một cây cầu, sau này bọn thanh niên gọi là cầu tình. Đơn giản vì cứ những đêm có trăng là trai gái kéo nhau ra đấy đùa cợt, tán tỉnh, rồi chỉ vài bữa là từng đôi, từng đôi một làm đám cưới. Đám cưới nào cũng tưng bừng rình rang, mừng nhau toàn soong với chậu, với ấm chén, bát đĩa, bọc tuốt trong giấy đỏ. Rượu rót tràn cung mây, ba ngày liền mới xong.

Tôi nhớ những nếp nhà mùa xuân, khi những cây mận nở trắng muốt trong vườn và những bông cải cứ vàng óng, mướt mát như không có thứ gì óng mướt hơn thế được; khi những ngọn khói len qua mái lá mọc đầy cỏ xanh, trĩu nặng vì sương không sao cất lên được. Trong những nếp nhà ấy, lửa luôn đỏ trong ô bếp vuông vuông. Ấm nước sôi lục bục, mùi cơm thơm thơm, mùi cá suối nướng sem sém và mùi chua chua cay cay của hũ măng ớt đang tỏa ra như thể chỉ có mỗi một việc là mời gọi những cái bụng đói. Tôi ngồi trong bếp nhà bà Bình Biền và vẫn tiếp tục nghe bà đọc thơ hay nhẩn nha hát vài câu then buồn đến da diết. Buồn thế nhưng gương mặt bà lại thật hồng hào và đôi mắt thì lấp lánh làm sao.

Núi rừng, cánh đồng và ngôi làng như trái tim ấm áp luôn đập dịu dàng trong ký ức đẹp đẽ của tôi. Tôi luôn nghĩ thần núi là đàn ông. Một người đàn ông cao lớn, có bờ vai vuông vức và ấm áp, để ai ai cũng có thể từ xa hay ở gần, hễ muốn thì có thể tựa vào.

Tùy bút của ĐỖ BÍCH THÚY