Những ngày cuối năm, hơn 300 hộ dân trồng chè tại xã Tân Linh (Đại Từ, Thái Nguyên) tất bật, khẩn trương lao động để hoàn thành các quy trình sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP (sản xuất nông nghiệp tốt). Nhìn những đồi chè xanh bát ngát, trải rộng trên 87ha mới thấy được mồ hôi, công sức của người dân nơi đây đã bỏ ra nhiều đến dường nào. Và cũng nhờ chuyển sang mô hình trồng chè sạch mà bình quân hằng tháng, mỗi hộ dân nơi đây thu nhập gần 15 triệu đồng, cao hơn khoảng 40% so với những công việc trước đây. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật canh tác mà Công ty Cổ phần Tài nguyên Masan đồng hành với cộng đồng dân cư nơi đây. Công ty cũng có chính sách ưu tiên tuyển dụng lao động tại địa phương. Theo đó, hơn 60% lao động làm việc ở đây là người dân trên địa bàn huyện Đại Từ. Quá trình xây dựng, vận hành nhà máy chế biến, Công ty Cổ phần Tài nguyên Masan và các nhà thầu của dự án đã tạo việc làm, thu nhập cho khoảng 3.000 lao động địa phương, trong đó, khoảng 1.000 người từ các gia đình bị ảnh hưởng do thu hồi đất cho dự án. Ông Craig Bradshaw, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tài nguyên Masan cho biết: “Chúng tôi giữ quan điểm phải sử dụng một cách hiệu quả nguồn tài nguyên, cẩn trọng hoạch định các hoạt động để đem đến lợi ích hiện tại cũng như lợi ích lâu dài cho con người, môi trường và sự thịnh vượng chung. Đây chính là cách chúng tôi bảo đảm phát triển bền vững”.
 |
Nhân viên của Công ty Cổ phần Tài nguyên Masan hướng dẫn người dân địa phương kỹ thuật trồng chè sạch. |
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hình thành khuôn khổ pháp lý dành cho tín dụng xanh, Việt Nam đã có những bước đi cụ thể hóa kế hoạch hành động và triển khai cho lĩnh vực này. Năm 2015, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ban hành kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020. Ngoài ra, NHNN Việt Nam đã lồng ghép chương trình tín dụng xanh vào các văn bản quy phạm pháp luật do NHNN Việt Nam ban hành hoặc do NHNN Việt Nam soạn thảo trình Chính phủ ban hành. Đặc biệt, ngày 7-8-2018, NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1604/QĐ-NHNN về việc phê duyệt đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam nhằm tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng với việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ những dự án thân thiện với môi trường…
Theo ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Tiên Phong: Việc triển khai các chính sách tín dụng hướng tới tăng trưởng xanh giúp mang lại nhiều lợi ích trên các phương diện. Đối với quốc gia, chính sách tín dụng xanh đóng góp tích cực cho sự phát triển cân bằng, hài hòa giữa kinh tế, môi trường và xã hội; góp phần xóa đói, giảm nghèo và cải thiện chất lượng đời sống nhân dân; tránh được rủi ro về môi trường và xã hội mà nhiều quốc gia đã gặp phải do quá chú trọng về phát triển kinh tế mà coi nhẹ vấn đề môi trường sinh thái. Chính sách tín dụng xanh khuyến khích doanh nghiệp coi trọng vấn đề bảo vệ môi trường, là cơ hội để họ tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi trong và ngoài nước, nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước. Về phía cộng đồng và người tiêu dùng, chính sách tín dụng xanh mang lại cơ hội sử dụng sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, hạn chế những rủi ro sử dụng sản phẩm độc hại. Bên cạnh đó, đây cũng là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thế giới, là cơ hội để các tổ chức tài chính, tín dụng xanh quốc tế đầu tư vốn vào Việt Nam.
Theo bà Hoàng Thị Phương Hạnh, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế NHNN Việt Nam, để tài trợ cho chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, nước ta cần huy động nguồn vốn đầu tư rất lớn. Do vậy, Việt Nam cần có chiến lược, khuôn khổ chính sách tài chính xanh phù hợp để tạo ra các công cụ và sản phẩm tài chính xanh hữu hiệu nhằm huy động vốn cho sự phát triển bền vững thông qua thị trường tài chính. Bên cạnh đó, cùng với những tín hiệu bước đầu khởi sắc trong ngành tài chính xanh, Việt Nam cũng nhận thức được nhiều thách thức và rủi ro tiềm ẩn đối với lĩnh vực này, như: Bảng cân đối tài sản của các ngân hàng chủ yếu được hình thành từ luồng vốn ngắn hạn nên thiếu vốn trung và dài hạn đầu tư cho các dự án xanh; nền kinh tế thiếu các kênh huy động vốn trung và dài hạn để hỗ trợ cho tài chính xanh; khó khăn trong việc kiểm soát kết quả đầu ra của các dự án xanh cũng như trong việc thẩm định, đánh giá tính chất “xanh” của các dự án đề xuất… Những hạn chế này đang trở thành những rào cản đối với sự phát triển của ngành tín dụng xanh ở Việt Nam.
Các chuyên gia tài chính-ngân hàng cho rằng, để đẩy mạnh tín dụng xanh thì NHNN Việt Nam nên có những cơ chế khuyến khích rõ ràng. Chẳng hạn, nếu đầu tư cho tín dụng xanh sẽ không bị tính vào hạn mức tăng trưởng tín dụng bởi khi tài trợ tín dụng xanh, các ngân hàng đã chấp nhận hy sinh một phần lợi nhuận của mình. Ngoài ra, NHNN Việt Nam có thể quy định tỷ lệ tối đa đối với tăng trưởng tín dụng xanh để tránh trường hợp “lách” qua tín dụng xanh nhưng thực chất không phải là cho vay để nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng cần tập trung vào việc xây dựng, đào tạo đội ngũ nhân sự có năng lực đối với việc quản lý rủi ro môi trường-xã hội trong quy trình cấp tín dụng và các kiến thức nền tảng về tín dụng xanh. Một cơ chế chia sẻ rủi ro như bảo hiểm hoặc các quỹ bảo lãnh cũng sẽ khuyến khích các ngân hàng tham gia nhiều hơn vào tín dụng xanh.
Bài và ảnh: NGUYỄN ANH VIỆT