Ấy thế mà nay, chuyện trên trời năm xưa đã thành sự thật khi tháng 10-2019, Việt Nam xuất khẩu lô sữa đầu tiên sang Trung Quốc. Chuyến “xuất ngoại” của sữa không chỉ khẳng định vị thế và sự phát triển của ngành sản xuất sữa Việt Nam mà còn đem đến cho bạn bè quốc tế một cái nhìn rất khác về ngành nông nghiệp và con người Việt Nam.
Nếu như năm 2010, Việt Nam mới có đàn bò sữa khoảng 128.000 con thì đến nay, đàn bò sữa của Việt Nam đã đạt khoảng 294.000 con. Sản lượng sữa của Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 6 châu Á, đứng thứ 4 về năng suất sữa. Vậy câu hỏi đặt ra, điều gì khiến ngành nông nghiệp Việt Nam làm được điều tưởng chừng như không tưởng ấy? Đầu tiên phải kể tới là việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ (KHCN) trong chăn nuôi, trong đó có chăn nuôi bò sữa gần chục năm qua phát triển “như vũ bão”. Từ chỗ giống bò, thức ăn, chăn nuôi, sản xuất chế biến sữa... đều theo dạng thủ công, nhỏ lẻ, thì nay đã thành nền chăn nuôi công nghiệp với sự hỗ trợ của máy móc, trang thiết bị công nghệ. Theo bà Thái Hương, nhà sáng lập của Tập đoàn TH, Tập đoàn TH sử dụng KHCN, trang thiết bị của Israel, Hà Lan trong chăn nuôi bò sữa, cùng với đó là áp dụng mô hình quản trị doanh nghiệp của Đức. Chính điều này đã đưa TH từ con số 0 trở thành một trong những “ông lớn” của ngành sữa Việt Nam.
Điều thứ hai, ít được nhắc đến trong thành công của ngành sữa, chính là việc thay đổi tư duy, cách làm. Trước đây, nhắc đến ngành sữa người ta thường cho rằng, Việt Nam không có lợi thế về sản xuất sữa do khí hậu không phải là nơi thích hợp chăn nuôi bò sữa (cần mát, độ ẩm thấp). Khó khăn nữa là người chăn nuôi không có kiến thức, kinh nghiệm chăn nuôi bò sữa. Vì vậy, chỉ vài địa phương có thể sản xuất sữa: Huyện Mộc Châu (Sơn La), huyện Ba Vì (Hà Nội), TP Đà Lạt (Lâm Đồng) mà thôi. Ít ai nghĩ rằng, mảnh đất xứ Nghệ lại có thể trở thành một trong những “thủ phủ” của ngành sữa Việt Nam. Tại vùng đất vốn mỗi khi nhắc đến là người ta chỉ nghĩ tới hình ảnh nắng gió, đất cằn khô, sỏi đá thì nay, trên chính mảnh đất ấy, “dòng vàng trắng” lại liên tục chảy tới mọi miền đất nước, cũng từ đây, sản phẩm sữa Việt Nam lần đầu “xuất ngoại”. Và không chỉ sản xuất sữa phục vụ thị trường, người Việt Nam còn sản xuất sữa hữu cơ (organic). Sự phát triển ấy kéo theo “bản đồ” sữa của Việt Nam lan rộng ra khắp các vùng miền từ...
Không chịu kém cạnh, Vinamilk cũng chinh phục vùng đất đầy nắng gió tại xã Long Khánh, huyện Bến Cầu (Tây Ninh). Khu chăn nuôi “resort” của Vinamilk dành cho bò sữa có tổng diện tích 685ha với 8.000 con bò sữa. Tổng kinh phí đầu tư hơn 1.200 tỷ đồng. Bí quyết Vinamilk chinh phục mảnh đất Tây Ninh này để chăn nuôi bò sữa cũng chính là việc áp dụng KHCN, ứng dụng Cách mạng số 4.0 toàn diện theo công nghệ Mỹ, Nhật, châu Âu trong toàn bộ mô hình chăn nuôi và quản lý của mình. Chẳng thế mà bà Mai Kiều Liên, Tổng giám đốc Vinamilk đầy tự tin khẳng định: "Ngành chăn nuôi bò sữa của Việt Nam đang tiến rất gần đến mục tiêu trở thành ngành nông nghiệp công nghệ cao, phát triển theo hướng bền vững và tiệm cận với thế giới".
Trong thành công của ngành sữa Việt Nam hôm nay, rõ ràng không thể không nhắc tới vai trò đầu tàu của doanh nghiệp. Chính các doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư, áp dụng KHCN để biến những điều không thể thành có thể, những điều không tưởng thành hiện thực. Thành công bước đầu của ngành sữa cho thấy, tái cơ cấu ngành chăn nuôi, ngành nông nghiệp nước ta đã bắt đầu đi đúng hướng và thu được “trái ngọt”. Nó là chỉ dấu khẳng định một điều khi chúng ta tự tin, quyết tâm, thay đổi tư duy, cách làm, đầu tư, ứng dụng KHCN thì chúng ta sẽ giành thành công.
NGUYỄN KIỂM