Tiền tuyến, hậu phương cùng phấn đấu vào Đảng

Năm 1965, sau đợt tham gia dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ ở sân bay Kép (Bắc Giang), Trần Văn Lương nhập ngũ, để lại ở quê hương người vợ hiền Nguyễn Thị Sung vừa mới “quen hơi bén tiếng”. Đầu năm 1966, anh Lương đi B, vào Đại đội Vận tải thuộc Trung đoàn Ba Gia, Quân khu 5. Việc vận chuyển thương binh, tử sĩ vô cùng vất vả, hiểm nguy. Với cây súng trên vai, lúc ba người, khi chỉ hai người đảm nhiệm một cáng, thậm chí có lúc phải lấy lưng thay cáng, cõng đồng đội về tuyến sau; trong khi trên đường vận chuyển không có giao thông hào và hầm, hố để tránh bom đạn địch.

 Vợ chồng ông Lương (đứng giữa) trao đổi về xây dựng nông thôn mới và gia đình văn hóa.

Giao thừa Tết Đinh Mùi 1967, sau khi nghe Chính trị viên, Bí thư chi bộ đại đội Nguyễn Văn Khoan (quê Vĩnh Phú) truyền đạt lời chúc Tết của Bác Hồ: “Xuân về xin có một bài ca/ Gửi chúc đồng bào cả nước ta/ Chống Mỹ, hai miền đều đánh giỏi/ Tin mừng thắng trận nở như hoa!”, anh Lương soạn bức thư, kể cho vợ về giờ phút thiêng liêng ấy. Đoạn cuối, anh viết: “Sung yêu thương! Ở chiến trường, anh đã thuộc diện cảm tình Đảng. Lúc này chúng mình chưa có con..., em hãy cùng anh phấn đấu góp công vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đất nước thống nhất, mình sẽ sum họp và sinh những đứa con đẹp như mùa xuân, em nhé!”. Sáu tháng sau, chị Sung nhận thư anh. Trong thư đáp, chị viết: “Em sẽ là người đảng viên đón anh chiến thắng trở về! Em hứa!”.

Cuối năm 1969, trong lần vận chuyển hàng quân nhu giáp Tết, anh Lương bị trúng đạn của biệt kích địch. Sau hàng tháng trời cứu chữa, sức khỏe tạm hồi phục, anh xung phong làm nhiệm vụ ngay, nêu gương sáng trong đơn vị. Ngày 8-7-1970, tại một cánh rừng ở Quảng Ngãi, Bí thư chi bộ Nguyễn Văn Khoan chủ trì Lễ kết nạp quần chúng Trần Văn Lương vào Đảng. Từ đó, anh càng phát huy tính tiền phong gương mẫu trong những nhiệm vụ mới, trước những thử thách mới. 

Ở quê nhà, tháng 12-1969, người vợ trẻ Nguyễn Thị Sung đang là học viên Lớp A-K10 Trường Trung học Nông nghiệp Hà Bắc (nay là Bắc Giang và Bắc Ninh) thì được kết nạp Đảng, đúng như lời hai người hẹn ước. Ra trường, chị tích cực tham gia phong trào phụ nữ “Ba đảm đang”; làm Bí thư chi đoàn kiêm Hội trưởng Hội Phụ nữ thôn Chùa, xã Lương Phong; đại biểu HĐND huyện Hiệp Hòa… đồng thời thay chồng trông nom bố mẹ và chăm lo, giúp đỡ các em nên người. Giải phóng miền Nam được hơn nửa năm, anh Lương vẫn “biệt vô âm tín”. Gia đình đôi bên rất sốt ruột, đã nghĩ đến điều bấy nay cố tránh, rằng anh đã hy sinh ở mặt trận rồi.

Sau mùa xuân đầu tiên sum họp…

Cuối năm 1975, anh Lương được về phép đón Xuân Bính Thìn 1976 ở quê nhà. Trong ba lô của anh có 3 Huân chương Chiến sĩ Giải phóng (hạng Nhất, Nhì, Ba), một Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, một bằng Dũng sĩ diệt Mỹ.

Ngày sum họp, bố mẹ anh đã về với tổ tiên. Đêm khuya, chỉ còn người trong nhà với nhau, các em bàn chuyện mổ lợn để mừng anh trai trở về, nhưng anh bảo: “Dừng lại các em ạ, họ mạc, hàng xóm láng giềng còn nhiều người không trở về... Để đến hôm Ba mươi Tết hãy mổ lợn để cúng tổ tiên, ông bà, bố mẹ, rồi đi viếng nghĩa trang liệt sĩ...".

Mùa xuân 1976-mùa xuân đầu tiên của đất nước thống nhất, cũng là  “mùa xuân đầu tiên” của anh Lương và chị Sung sau 11 năm xa cách. Cuối năm 1976, con trai đầu lòng của anh chị ra đời.

Anh Lương phục viên, tham gia công tác trong cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương. Cuối năm 1979, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc diễn ra ác liệt. Lúc đó, chị Sung một nách hai con nhỏ, kinh tế gia đình vô cùng khó khăn, nhưng khi Đảng ủy xã Lương Phong cần một cán bộ đủ đức, đủ tài tham gia chỉ huy lực lượng dân công của xã đi làm nhiệm vụ ở vùng biên giới Lạng Sơn, chị vẫn động viên chồng: “Việc này quan trọng, em thấy anh đáp ứng được!”. Thế rồi, giữa lúc đang có điều kiện phát triển lên vị trí lãnh đạo cao hơn, chị Sung đã báo cáo cấp ủy, xin tạm nghỉ công tác để có thời gian chăm hai con nhỏ và lao động sản xuất, bảo đảm cuộc sống của gia đình, cốt để chồng yên tâm đi làm nhiệm vụ Đảng giao…

Sau đợt công tác trở về, ông Lương tiếp tục làm trưởng thôn, được sự tin tưởng của cấp ủy và nhân dân địa phương, nhiều năm Đảng ủy xã tặng giấy khen. Tất cả những phần thưởng trong quá trình công tác, ông bày trang trọng bên cạnh tấm Huy chương Kháng chiến hạng Nhì của bà Sung.             

Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG