Trong bối cảnh thời tiết cực đoan, mưa lũ diễn biến khó lường, công tác bảo đảm an toàn hồ, đập chứa nước đang đặt ra nhiều thách thức lớn đối với các địa phương. Đặc biệt, nhiều hồ chứa đã xuống cấp, vận hành quá tuổi thiết kế, trong khi hệ thống cảnh báo, giám sát còn hạn chế.
Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với GS, TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó chủ tịch phụ trách Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam để làm rõ thực trạng, nguyên nhân và những giải pháp cấp bách nhằm nâng cao an toàn hồ đập trong mùa mưa lũ.
 |
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng. Ảnh: NGUYỄN HUYỀN |
Phóng viên (PV): Đồng chí đánh giá thế nào về tình hình mưa lũ ở nước ta thời gian qua? Mưa lũ ảnh hưởng thế nào đến hệ thống hồ đập, hồ chứa nước, thưa đồng chí?
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng: Mưa bão năm nay xuất hiện sớm ở miền Trung. Trong tháng 5 và tháng 6-2025, khu vực Thanh Hóa và Nghệ An đã trải qua đợt mưa lớn diện rộng, với lượng mưa phổ biến 100-250mm, có nơi trên 350mm. Ở miền Bắc, đến tháng 10 vẫn có bão, lũ lớn. Mưa bão lớn, xảy ra liên tục đã làm cho công tác ứng phó thiên tai và điều hành hồ chứa gặp khó khăn.
Riêng với hồ chứa ở miền Bắc, thông thường thời điểm này là cuối mùa mưa, các năm trước đều bắt đầu tích nước theo quy trình để chuẩn bị cho mùa khô tới. Nhưng với tình hình mưa lũ như hiện nay đã bắt buộc phải điều tiết chống lũ, hạ mực nước để đón lũ. Nếu thời gian tới không có mưa nữa thì nguy cơ thiếu hụt nước cho phát điện và cấp nước năm sau khả năng là cao.
PV: Ảnh hưởng của cơn bão số 11 đang gây hậu quả đặc biệt nặng nề tại các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có sự cố vỡ đập Thủy điện Bắc Khê 1 (xã Tân Tiến, tỉnh Lạng Sơn). Đồng chí đánh giá như thế nào về sự cố này và bài học kinh nghiệm rút ra là gì?
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng: Sự cố vỡ đập như ở Bắc Khê 1 là điều hoàn toàn có thể xảy ra trong bối cảnh hiện nay, khi phần lớn các công trình thủy điện vừa và nhỏ đang do các doanh nghiệp tư nhân quản lý, trong khi năng lực kỹ thuật, ý thức chấp hành quy định pháp luật về an toàn hồ đập vẫn còn hạn chế. Về bản chất, thiệt hại trực tiếp từ việc hư hỏng một đập thủy điện có thể không quá lớn so với tổng giá trị công trình, nhưng hậu quả gián tiếp đối với khu vực hạ du lại vô cùng nặng nề, đặc biệt là thiệt hại về người, tài sản, môi trường và hạ tầng dân sinh.
 |
Hồ chứa nước Ngàn Trươi của công trình thủy lợi Ngàn Trươi - Cẩm Trang, tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh do Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cung cấp
|
Thực tế cho thấy, nhiều chủ đập vẫn còn chủ quan, cắt giảm chi phí cho công tác bảo trì, giám sát định kỳ hoặc tập huấn phòng, chống thiên tai. Phương án ứng phó tình huống khẩn cấp còn mang tính hình thức, đối phó, chưa được xây dựng một cách bài bản; người dân ở hạ du ít được tập huấn, không biết phải làm gì khi xảy ra sự cố. Từ vụ việc này, chúng ta có thể thấy quy trình vận hành liên hồ chứa vẫn còn nhiều bất cập, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các hồ thủy điện, thủy lợi trong cùng lưu vực, dẫn đến việc xả lũ không hợp lý. Công tác chỉ đạo, điều hành trong tình huống khẩn cấp còn lúng túng, thiếu sự kết nối thông tin giữa doanh nghiệp, chính quyền địa phương và cơ quan quản lý nhà nước.
PV: Hiện nay, cả nước có bao nhiêu hồ đập, hồ chứa nước và tình trạng an toàn của các công trình này đang được đánh giá ra sao, thưa đồng chí?
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng: Hiện nay, cả nước có 6.750 hồ chứa nước với tổng dung tích khoảng 14,5 tỷ mét khối, 570 hồ chứa thủy điện với tổng dung tích khoảng 56,5 tỷ mét khối. Nếu tính các đập cao trên 50m thì thủy lợi có 7 đập, thủy điện có 63 đập.
Nhiều năm qua, Việt Nam chưa xảy ra sự cố vỡ đập nghiêm trọng (theo quan điểm quốc tế, sự cố vỡ đập được xem là nghiêm trọng khi số người chết trên 10 người). Vừa qua, có xảy ra một số sự cố vỡ đập, nhưng đều là các đập nhỏ (chiều cao dưới 15m), không gây chết người. Có được kết quả như vậy là do công tác quản lý an toàn đập được quan tâm, công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp trong phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai có nhiều tiến bộ. Riêng các đập, hồ chứa nước vừa và lớn đã được Nhà nước quan tâm đầu tư nâng cấp qua nhiều chương trình, dự án. Đến nay, chỉ còn hơn 10 đập loại vừa và lớn cần đầu tư nâng cao khả năng xả lũ.
PV: Đồng chí có thể phân tích những nguy cơ tiềm ẩn đối với các hồ đập, đặc biệt là các công trình đã xây dựng lâu năm hoặc xuống cấp?
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng: Cũng như trên thế giới, ở Việt Nam, nguy cơ vỡ đập do lũ chiếm tỷ lệ lớn nhất, trên 37% sự cố vỡ đập. Với Việt Nam, đa số đập vừa và nhỏ được xây dựng lâu năm và đại đa số là đập đất, ngoài yếu tố do lũ thì thấm/rò rỉ và bồi lắng hồ chứa cũng là nguy cơ tiềm ẩn rất đáng quan ngại. Ngoài ra, với các đập vừa và nhỏ còn cần phải lưu ý đến công tác bảo trì. Tình trạng chung hiện nay ở các đập vừa và nhỏ là thiếu kinh phí, thiếu người chủ đích thực chịu trách nhiệm. Trong bối cảnh chính quyền địa phương hai cấp như hiện nay, vấn đề này cần phải đặc biệt quan tâm.
PV: Việc vận hành, điều tiết hồ chứa trong thời điểm mưa lũ phức tạp cần tuân thủ nguyên tắc gì và cần có những chính sách hoặc đầu tư trọng tâm nào để nâng cao an toàn hồ đập trong dài hạn, thưa đồng chí?
GS, TS Nguyễn Quốc Dũng: Việc vận hành, điều tiết hồ chứa trong thời điểm mưa lũ phức tạp, giảm thiểu thiệt hại cho vùng hạ du cần tuân thủ sự chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền, cụ thể là Ban chỉ huy Phòng thủ dân sự các cấp. Tuy nhiên, điều quan trọng là trước mùa lũ cần làm tốt công tác kiểm tra theo quy định. Đặc biệt là phải xây dựng phương án ứng phó tình huống khẩn cấp một cách thực chất, bài bản, tránh cách làm hình thức. Có được phương án ứng phó tình huống khẩn cấp rồi thì phải có tuyên truyền, phổ biến, diễn tập và định kỳ rà soát, điều chỉnh cho phù hợp thực tế.
Về chính sách và đầu tư trọng tâm, có nhiều việc phải làm, nhưng nếu nói trọng tâm thì có 4 nhóm vấn đề. Về thể chế quản lý an toàn đập, đặc biệt trong mùa lũ, không nên phân biệt đập thủy lợi, đập thủy điện. Tiến tới cần xây dựng Luật An toàn đập như nhiều quốc gia khác; cần quy định kinh phí bảo trì đập hằng năm tương ứng giá trị công trình theo Luật Xây dựng.
Theo quy định quốc tế, kinh phí bảo trì đập hằng năm khoảng 1,5-5% giá trị công trình. Hiện tại, kinh phí bảo trì đập thủy lợi đang lấy từ ngân sách và đang có nhiều vướng mắc trong thực hiện quy định này. Về phương pháp đánh giá an toàn đập, cần áp dụng cách tiếp cận dựa trên thông tin rủi ro. Hiện tại, đánh giá an toàn đập đang dựa trên thông tin về công trình (chiều cao đập, dung tích hồ chứa), chưa gắn với hậu quả đối với hạ du nếu có sự cố đập.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!
HUYỀN TRANG (thực hiện)
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Bạn đọc xem các tin, bài liên quan.