Liên quan đến việc thực hiện Bộ luật này có nhiều quy định đang áp dụng, sẽ thay đổi về trình tự tố tụng, phạm vi áp dụng, cách thức thực hiện, trong đó việc bảo đảm quyền lợi của người bị buộc tội-quyền bào chữa, trách nhiệm nghĩa vụ của người thực hiện quyền bào chữa quy định tại các Điều 75, 76.

Khoản 1 Điều 57 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định đối với người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình trong các trường hợp:

a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật Hình sự;

b) Bị can, bị cáo là người chưa thanh niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Do BLHS năm 2009 chỉ có 22 Điều luật nên các cơ quan tiến hành tố tụng phải xử lý theo khoản 1 Điều 57 BLTTHS năm 2013, còn khoản 2 phải căn cứ vào độ tuổi, năng lực hành vi của người phạm tội, không phụ thuộc vào khung hình phạt.

leftcenterrightdel
Ảnh minh họa/liendoanluatsu.org.vn. 
Đến BLHS năm 2015 thì theo quy định tại Điều 76 phạm vi chỉ định người bào chữa được mở rộng hơn, đó là:

1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:

a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;

b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.

2. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này:

a) Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sự cử người bào chữa;

b) Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý;

c) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

Với quy định trên thì BLHS sửa đổi bổ sung năm 2017 có 83 điều luật, 119 khung hình phạt phải chỉ định người bào chữa vì có nhiều điều luật quy định các khung hình phạt đến 20 năm tù, từ 20 năm đến chung thân, từ 12 năm đến 20 năm, chung thân, tử hình như các Điều 123 Tội giết người, Điều 248 Tội sản xuất trái phép chất ma túy, Điều 353 Tội tham ô tài sản, Điều 358 Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi. (So với BLHS năm 2009 khung hình phạt thuộc đối tượng phải chỉ định người bào chữa tăng gần 5 lần).  

Tuy BLHS không quy định việc chỉ định bào chữa cho người bị hại nhưng xuất phát từ tình hình thực tiễn bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người chưa thanh niên, phù hợp với Công ước Quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em, tại Điều 14 thông tư liên tịch số 01 ngày 12/7/2011 của VKSNDTC, TNDTC, Bộ Công an, Bộ Tư Pháp, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã quy định: Việc tham gia của người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là người chưa thành niên (theo BLHS có 17 Điều khoản quy định bị hại là người dưới 18 tuổi).

Cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị hại là người chưa thành niên hoặc cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của họ về quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là người chưa thành niên.

Trường hợp người bị hại là người chưa thành niên hoặc cha mẹ, người  đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bảo vệ  quyền lợi cho người bị hại thì theo yêu cầu hoặc đề nghị của họ, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử luật sư hoặc cơ quan, tổ chức có người bị hại là thành viên cử  bào chữa viên nhân dân bảo vệ quyền lợi cho họ.

Một bất cập đang khó giải quyết hiện nay là, với khối lượng công việc tăng như trên trong khi đó đội ngũ luật sư và trợ giúp viên pháp lý ở các tỉnh miền núi còn hạn chế, nhiều năm qua không tăng về số lượng. Mặt  khác, về tổ chức và đối tượng được thụ hưởng, căn cứ vào điều 2 Nghị định số 07/NĐ-CP ngày 12-1-2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý ngày 20-6-2017 có hiệu lực từ ngày 1-1-2008 tuy có mở rộng phạm vi nhưng  không phải người phạm tội nào thuộc các điểm a, b khoản 1 điều 76 BLTTHS cũng được Trung tâm trợ  giúp pháp lý chỉ định bào chữa.

Cách đây 60 năm, tại Thông tư số 101/HCTP ngày 29-8-1957, Bộ trưởng Bộ Tư pháp gửi Ủy ban hành chính, các Tòa án nhân dân khu, thành phố tỉnh thực hiện quy định “Bào chữa viên nhân dân”. Kế thừa quy định này tại điểm c khoản 1 Điều 35 BLHS năm 1988, điểm c khoản 1 Điều 57 BLHS năm 2003 và  điểm c khoản 2 Điều 72 BLHS năm 2015 đều có quy định về chức danh “Bào chữa viên nhân dân”.

Tuy được quy định từ lâu, liên tục trong các Bộ luật tố tụng, nhưng thực tế  đến nay chưa có văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện ngoài Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 2/10/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một người được coi là bào chữa viên nhân dân khi người đó được Ủy ban MTTQ, tổ chức thành viên của MTTQ cử ra bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Tòa án sẽ căn cứ vào giấy giới thiệu của Ủy ban MTTQ hoặc tổ chức thành viên từ cấp xã, phường trở lên mà cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho bào chữa viên nhân dân, trong khi đó các cơ quan tiến hành tố tụng khác  và các luật khiếu nại, luật tố tụng hành chính không đề cập đến chức danh “Bào chữa viên nhân dân”. Phải chăng chức danh này, chỉ có nhiệm vụ tham gia các vụ án hình sự?

Trên phương tiện thông tin đại đã có bài viết cho rằng: “Là nhà nước pháp quyền thời hội nhập thì không thể tồn tại chế định bào chữa viên nhân dân (BCVND) trong hoạt động tố tụng hình sự. Bởi BCVND chẳng những không còn phù hợp với nền tư pháp tiến bộ mà chỉ mang tính hình thức, hữu danh vô thực mà thôi. Đã đến lúc nên “loại bỏ” chức danh BCVND ra khỏi quy định về người bào chữa trong BLTTHS”. Trái lại, qua nghiên cứu thực tế tôi cho rằng, trong giai đoạn hiện nay rất cần và phát triển đội ngũ BCVND. Về nguyên tắc, một chức danh được Quốc hội thông qua đương nhiên nó phải được áp dụng,  quá trình thực hiện sẽ tháo gỡ những bất cập để từng bước hoàn thiện. Điều 72 BLHS năm 2015 đã khái niệm rõ: “BCVND là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình”.

Về đường lối, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/ 6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Xây dựng các chế định bổ trợ tư pháp đủ mạnh, đáp ứng kịp với tình hình; làm thí điểm ở một số địa phương về chế định thừa phát lại; từng bước xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp”.

Thực hiện quy định BCVND là nhằm tháo gỡ những khó khăn về lực lượng bất cập trong tổ chức và hoạt động để bảo vệ quyền lợi chính đáng của những người bị buộc tội và những bị hại dưới 18 tuổi...”.

Đảng đã ra nghị quyết “xã hội hóa”, nhà nước ban hành luật, trách nhiệm của chúng ta là tìm biện pháp tổ chức thực hiện.

Hiện nay, các tổ chức: Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Giáo chức, Hội cán bộ nghỉ hưu các ngành Pháp luật, Nông Lâm nghiệp, địa chính, Ngân hàng Tài chinh,… có nhiều người đủ tiêu chuẩn theo quy định của  Điều 72 BLHS năm 2015. Qua trao đổi, họ tâm sự nếu được huy động  họ sẽ sẵn sàng tham gia và đây được coi là nguồn “biên chế” dồi dào cho lực lượng BCVND.

Để nghị quyết của Đảng và quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, đề nghị UBMTTQ Việt Nam, cùng với Bộ Tư pháp và Liên đoàn luật sư Việt Nam sớm có hướng dẫn tổ chức mạng lưới BCVND.

Luật sư NGUYỄN THÀNH MINH - Văn phòng Luật sư Bùi La, số 253 đường Trần Phú, phường Phan Thiết, TP Tuyên Quang