Trong hoạt động tố tụng hình sự, Điều 18 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định 10 điểm trong đó điểm 9, điểm 10 áp dụng đối với pháp nhân thương mại và xử lý tài sản bị thiệt hại. Từ điểm 1 đến điểm 8 áp dụng đối với cá nhân trong các trường hợp như sau:

a) Đối với người chưa bị kết án (điểm 1,2)

Được áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị giữ không có căn cứ, người không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; người bị tạm giam có bản án quyết định của cơ quan người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

b) Đối với người đã bị kết án (điểm 3)

Người bị tạm giam mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

c)  Người bị kết án đã và đang chấp hành, chấp hành xong hình phạt tù (điểm 4)

Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

d) Người bị kết án nhưng không bị tạm giữ, tạm giam (điểm 5)

Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù mà có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

đ) Người bị kết án phạm nhiều tội đã chấp hành hình phạt tù (điểm 6)

Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;

 e) Người bị kết án phạt tù nhưng chưa thi hành án (điểm 7)

Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và hình phạt chung sau khi tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành;

 f)  Người bị kết án với nhiều bản án (điểm 8)

 Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Tòa án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành.

 

Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị quán triệt triển khai thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 cho các đại biểu tại khu vực phía Bắc.  Ảnh: baophapluat.vn

 

Nghiên cứu các điểm trên thấy rằng luật mới quy định người bị kết án được bồi thường trong trường hợp họ đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành bản án đã phát sinh hiệu lực pháp luật, phạm nhiều tội, bị tổng hợp nhiều bản án quy định tại các điểm 4, 6, 7 và 8. Tuy nhiên thực tế có những người đã chấp hành xong hình phạt của bản án chưa phát sinh hiệu lực pháp luật, sau đó mới được cải sửa nhưng chưa được luật quy định, chẳng hạn: 

1/ Áp dụng khung hình phạt tăng nặng không đúng: Ví dụ: Tháng 5-2011, Nguyễn Thị B bị án sơ thẩm áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139;  khoản 1, 2 Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999 xử phạt 1 năm 6 tháng tù về hành vi lừa đảo chiếm đoạt 70.000.000 đồng của bà A. Nguyễn Thị B kháng cáo cho rằng bản thân chỉ chiếm đoạt 45.000.000 đồng, còn 25.000.000 đồng B đã trả cho bà A trước thời điểm bị khởi tố. Khi xử phúc thẩm B đã chấp hành xong hình phạt chính, bản án phúc thẩm đã sửa án sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 139 phạt B 1 năm tù.

2/ Áp dụng không đúng tội danh: Ví dụ: Ông M là chủ nhiệm, bà N là kế toán HTX sản xuất vật liệu xây dựng bị kết án về tội tham ô tài sản. Án sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 278; khoản 1, 2 Điều 46, 47 BLHS năm 1999 xử phạt ông M 18 tháng tù, bà N 15 tháng tù, cả hai kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy hai bị cáo không phải là người có chức vụ quyền hạn được quy định trong Luật Phòng chống tham nhũng nên án phúc thẩm chuyển tội danh từ “Tham ô” sang tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, phạt ông M 12 tháng tù, bà N 3 tháng tù.

3/ Tháng 6-2012, chị H làm đơn tố cáo ông TVT có hành vi cưỡng dâm, án sơ thẩm phạt bị cáo 2 năm tù. Ngay từ giai đoạn điều tra ông TVT cho rằng chị H vu khống nên kháng cáo kêu oan. Tháng 6-2013 án phúc thẩm nhận xét cấp sơ thẩm có một số vi phạm trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ với tài liệu hiện có thì  “chưa đủ căn cứ vững chắc để kết luận TVT phạm tội” nên đã quyết định hủy án giao về cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại. Khi cơ quan Điều tra nhận lại hồ sơ thì chị H làm đơn rút yêu cầu khởi tố. Căn cứ vào Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 Cơ quan CSĐT ban hành quyết định đình chỉ vụ án nhưng trong kết luận điều tra vẫn xác định ông TVT phạm tội Cưỡng dâm.

Qua những ví dụ trên thấy rằng: Trường hợp chị B tuy bản án xử đúng người đúng tội nhưng không đúng khung hình phạt; ông M chị N bị xử không đúng tội, vậy số “dư” những tháng tù đã chấp hành của bản án sơ thẩm tuyên không đúng khung hình phạt thì  chị B, chị N và ông M có thuộc đối tượng được yêu cầu bồi thường không?

Việc Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa quy định những trường hợp người bị kết án phạm 1 tội nhưng không đúng với khung tăng nặng hoặc không đúng với tội danh đã kết án, sau khi chấp hành xong hình phạt họ mới được sửa án, hình phạt của bản án phúc thẩm thấp hơn so với bản án sơ thẩm thì thời gian vượt quá theo chúng tôi nên coi là bị “oan” và thuộc đối tượng được bồi thường.

Với trường hợp của ông TVH, Bộ luật Tố tụng Hình sự không quy định quyền khiếu nại nếu ông không đồng ý với Quyết định đình chỉ điều tra quy định ở khoản 2 Điều 155 nên không có căn cứ xem xét, mặc dù ông có “xung phong” làm bị can bị cáo, để mong được hưởng quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự về suy đoán vô tội. Tuy bản án phúc thẩm nhận xét chưa đủ cơ sở kết tội ông, nhưng ông cũng không thể có bản án kết luận ông không phạm tội, bởi khi có quyết định đình chỉ điều tra thì mọi hoạt động tố tụng sẽ chấm dứt, muốn khôi phục điều tra phải đủ điều kiện quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Đây là một “khiếm khuyết” của pháp luật.

Thực tế đã phát sinh những trường hợp bị tù “oan” nêu trên nhưng không có quy định xử lý, mong rằng cấp có thẩm quyền nghiên cứu để xử lý những tình huống này nhằm bảo đảm sự công bằng cho mỗi con người.

 Luật gia: NGUYỄN THÀNH MINH

 Chi hội luật gia Đoàn Luật sư tỉnh Tuyên Quang