Nguồn lực cho phát triển bền vững
Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển, ngành tài chính Việt Nam đã không ngừng đổi mới, hiện đại hóa, từ mô hình bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Sau thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tình hình tài chính-tiền tệ của chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn: Kho bạc khi đó chỉ còn hơn 1,25 triệu đồng Đông Dương, với khoảng một nửa là tiền rách; các nguồn thu ngân sách quá ít ỏi so với nhu cầu chi tiêu của chính quyền... Tuy nhiên, trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và biến động của thị trường tài chính toàn cầu, ngành tài chính đã đóng vai trò then chốt trong bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động và phân bổ hiệu quả nguồn lực cho phát triển kinh tế.
Kể từ giai đoạn đổi mới đến nay, Việt Nam đã từ vị thế một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới vào năm 1990 trở thành nền kinh tế quy mô thứ 4 trong ASEAN và thứ 34 toàn thế giới vào năm 2024. Năm 2024, tăng trưởng kinh tế của cả nước đạt 7,09% GDP, thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Việt Nam đã có quy mô nền kinh tế gần 500 tỷ USD, tăng gần 100 lần so với năm 1986. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32 toàn cầu, tăng 1 bậc so với năm 2023.
 |
Tổng Bí thư Tô Lâm trao Huân chương Độc lập hạng Nhất tặng ngành tài chính. Ảnh minh họa/nhandan.vn
|
Bước vào giai đoạn phát triển mới, Đảng và Chính phủ khẳng định cần huy động tối đa các nguồn lực để phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững. Trong đó, nguồn vốn đầu tư công, tín dụng ngân hàng và FDI (đầu tư trực tiếp từ nước ngoài) vẫn là 3 nguồn lực chính dẫn dắt tăng trưởng của Việt Nam.
Đối với nguồn vốn đầu tư công, đây là nguồn vốn giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Với chức năng dẫn dắt, định hướng và kích hoạt các nguồn lực đầu tư khác, đầu tư công góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng, giảm bất bình đẳng vùng miền và hỗ trợ các ngành kinh tế chủ chốt. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động trong thập kỷ qua, từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, đại dịch Covid-19 đến căng thẳng địa chính trị khu vực và toàn cầu, vai trò của đầu tư công càng trở nên thiết yếu trong chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Trong 10 năm qua, đầu tư công ở Việt Nam không ngừng gia tăng về quy mô. Tổng vốn đầu tư công theo kế hoạch trung hạn giai đoạn 2021-2025 đạt khoảng 2,87 triệu tỷ đồng, tăng hơn 40% so với giai đoạn 2016-2020 (khoảng 2 triệu tỷ đồng). Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội dao động trong khoảng 30-35%, cho thấy vai trò to lớn của Nhà nước trong định hướng và thúc đẩy tăng trưởng đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài. Với quyết tâm mạnh mẽ của Đảng và hành động quyết liệt của Chính phủ, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công được dự kiến sẽ đạt trên 95% vào năm 2025.
Đối với nguồn vốn tín dụng, có thể khẳng định đây là nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng của Việt Nam. Trong 10 năm qua, tăng trưởng tín dụng đạt mức cao, khoảng 11-18%/năm. Đặc biệt, tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP của Việt Nam cũng có xu hướng tăng nhanh qua các năm. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh trong khoảng từ năm 2000 đến nay. Nếu như tại năm 2000, tỷ lệ tín dụng/GDP chỉ khoảng 38% thì trong khoảng 10 năm gần đây, tỷ lệ tín dụng/GDP đã tăng dần và đạt đỉnh 134% vào năm 2024. Điều này cho thấy hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong việc cung cấp nguồn lực cho nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy vốn đầu tư trong nước hiện phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung hạn và dài hạn.
Trong nửa đầu năm 2025, tín dụng tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Cụ thể, tính đến ngày 30-6-2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt trên 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm 2024, tăng 19,32% so với cùng kỳ năm 2024. Đây cũng là mức tăng trưởng tín dụng cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Tuy nhiên, việc duy trì tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP quá cao có thể gây ra các rủi ro như gia tăng nợ xấu, nguy cơ lạm phát cao và tiềm ẩn bong bóng tài sản tài chính và bất động sản.
Về nguồn vốn FDI, kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lần đầu tiên năm 1987, dòng vốn FDI đã đóng vai trò ngày càng quan trọng, trở thành một trong những động lực tăng trưởng chính của kinh tế đất nước. Trong giai đoạn 2015-2024, FDI đã đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm khoảng 60-72% tổng kim ngạch xuất khẩu và 50-60% tổng kim ngạch nhập khẩu, hỗ trợ tích cực tăng trưởng GDP qua việc tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu và chuyển giao công nghệ. Dòng vốn FDI đã trở thành động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Tuy nhiên, việc quá phụ thuộc vào dòng vốn FDI cũng dẫn đến tình trạng “hai nền kinh tế”, tình trạng “xuất khẩu thuê” khi phần lớn kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam được thực hiện bởi các doanh nghiệp FDI.
Khơi thông nguồn tài chính cho phát triển bền vững
Có thể khẳng định, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Nguồn lực tài chính đóng vai trò then chốt, là cốt lõi cho việc bảo đảm hoạch định, thực thi và duy trì mục tiêu kép tăng trưởng nhanh và bền vững. Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, tăng trưởng xanh thì cần có những giải pháp cụ thể gắn với từng nguồn lực tài chính. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với nguồn vốn đầu tư công: Để nâng cao hiệu quả đầu tư công gắn với phát triển bền vững, cần lồng ghép tiêu chí phát triển bền vững ESG (môi trường, xã hội, quản trị) vào quy trình lựa chọn, xét duyệt và phân bổ vốn đầu tư công. Bên cạnh đó, cần thực hiện đánh giá tác động môi trường chiến lược (SEA) cho các chương trình lớn, tránh gây ô nhiễm môi trường hoặc làm suy giảm tài nguyên. Cần ưu tiên phân bổ vốn theo tiêu chí hiệu quả-không theo địa bàn hành chính, tránh dàn trải, manh mún; ưu tiên các dự án có tính lan tỏa, tạo động lực tăng trưởng xanh như hạ tầng năng lượng tái tạo, giao thông xanh, đô thị thông minh; các dự án đầu tư công cần bảo đảm cơ hội tiếp cận bình đẳng cho các nhóm yếu thế như người nghèo, người dân vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, tránh tình trạng "phát triển nhưng không bền vững", gây mất sinh kế, di dời cưỡng bức, bất bình đẳng xã hội. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hợp tác công tư (PPP) trong các lĩnh vực hạ tầng thiết yếu nhưng ngân sách còn hạn chế; thiết kế cơ chế chia sẻ rủi ro minh bạch giữa Nhà nước và nhà đầu tư, bảo đảm lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ giữa các bên tham gia.
Thứ hai, đối với nguồn vốn tín dụng ngân hàng, thúc đẩy tín dụng gắn với phát triển bền vững là xu thế tất yếu và là động lực quan trọng để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển xanh, ứng phó biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế. Điều này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách của Nhà nước, năng lực của hệ thống ngân hàng, sự chủ động của doanh nghiệp và vai trò của xã hội dân sự. Trước hết, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về ngân hàng xanh, tài chính xanh, tích hợp tiêu chí ESG vào hoạt động cấp tín dụng, quản trị rủi ro và báo cáo của ngân hàng. Bên cạnh đó, cần xem xét xây dựng cơ sở dữ liệu tín dụng xanh quốc gia, thành lập Trung tâm hỗ trợ tài chính xanh với đầu mối là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trên cơ sở hợp tác công tư cùng vận hành. Bên cạnh đó, cần thu hút đầu tư xanh, trái phiếu bền vững, trái phiếu khí hậu, đặc biệt là từ các tổ chức quốc tế và khu vực tư nhân để tạo nguồn tài trợ dài hạn cho các khoản tín dụng bền vững. Thiết lập sàn giao dịch carbon, thị trường tài chính môi trường để đa dạng hóa sản phẩm và kênh tín dụng. Tuy nhiên, cần thận trọng trong việc tăng trưởng tín dụng nóng, dễ dẫn tới tình trạng bong bóng tài sản và ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng trong tương lai.
Thứ ba, đối với nguồn vốn FDI, thu hút FDI gắn với phát triển bền vững không chỉ giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu về tăng trưởng xanh và phát thải ròng bằng 0 mà còn nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn FDI gắn với phát triển bền vững, cần tiếp tục chính sách “FDI chọn lọc”, ưu tiên các ngành công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng, chuyển đổi số, năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ; hạn chế FDI trong các ngành gây ô nhiễm, thâm dụng tài nguyên hoặc sử dụng công nghệ lạc hậu. Để thực hiện chiến lược “xây tổ đón đại bàng”, đón những nhà đầu tư quốc tế có trách nhiệm, cần nâng cấp hạ tầng hỗ trợ FDI xanh. Cụ thể, cần phát triển năng lượng tái tạo và điện lưới thông minh phục vụ các nhà đầu tư công nghệ cao và thân thiện môi trường; đầu tư mạnh vào logistics xanh, cảng biển sạch, giao thông carbon thấp; số hóa thủ tục hành chính và đầu tư, xây dựng cổng thông tin đầu tư thống nhất và thân thiện.
Ngoài ra, cần tăng cường ngoại giao kinh tế và quảng bá hình ảnh “FDI bền vững tại Việt Nam”. Cụ thể, cần triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư có trọng tâm, tập trung vào các tập đoàn ESG toàn cầu (Samsung, Apple, Intel, Nvidia...); phát triển thương hiệu quốc gia gắn với đầu tư xanh và phát triển bền vững; tăng cường vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc xúc tiến FDI xanh. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng thể chế và tính minh bạch trong môi trường đầu tư của Việt Nam; đặc biệt trong các khâu cấp phép, giải phóng mặt bằng xây dựng khu công nghiệp, bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ, sở hữu tài sản và xử lý các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Một môi trường đầu tư minh bạch cùng với sự ổn định chính trị của Việt Nam sẽ là tiền đề quan trọng để thu hút các dòng vốn đầu tư chất lượng cao, gắn với phát triển xanh và bền vững.
PGS, TS PHÙNG THANH QUANG, Viện Ngân hàng Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân
* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm hành trình độc lập - tự do - hạnh phúc xem các tin, bài liên quan.