Những năm gần đây, quyết tâm chính trị trong cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh và thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân đã được thể hiện rõ ràng, nhất quán, mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhìn về trung và dài hạn, khối lượng công việc còn lại vẫn rất lớn, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật và duy trì động lực cải cách một cách bền vững, hiệu quả và thực chất.

Thể chế pháp luật - gốc rễ của năng lực cạnh tranh quốc gia

Pháp luật là công cụ quản lý nhà nước ở mọi quốc gia. Chính vì vậy, nếu hệ thống pháp luật không được xây dựng và thực thi với chất lượng cao sẽ gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh; làm suy giảm năng lực cạnh tranh, cản trở đổi mới sáng tạo và tạo ra bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Ảnh minh họa: vneconomy.vn 

Thực tiễn cho thấy, thể chế pháp luật yếu kém thường dẫn tới 5 nhóm tác động tiêu cực chủ yếu: Tăng chi phí tuân thủ pháp luật; gia tăng rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp; kìm hãm năng động và sáng tạo; gây méo mó cạnh tranh và tác động bất lợi đến khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây cũng là 5 nhóm tiêu chí quan trọng để rà soát các quy định hiện hành và kiểm soát chất lượng các quy định pháp luật sẽ ban hành trong tương lai.

Điển hình là chi phí tuân thủ pháp luật hiện nay vẫn còn cao, bao gồm: Chi phí thời gian, chi phí thủ tục hành chính, chi phí chuyển đổi quy trình sản xuất, kinh doanh, chi phí cơ hội và chi phí phi chính thức. Những chi phí này đang bào mòn sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Cùng với đó, các rủi ro pháp lý phát sinh từ quy định không rõ ràng, chồng chéo hoặc chậm được sửa đổi, đang tạo ra môi trường pháp lý bất định, tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp và làm suy giảm niềm tin của nhà đầu tư. Không ít quy định vẫn mang tính áp đặt, can thiệp sâu vào cách thức tổ chức kinh doanh, làm hạn chế không gian đổi mới sáng tạo-vốn là động lực cốt lõi của một nền kinh tế hiện đại. Về hạn chế sáng tạo, năng động của doanh nghiệp và nền kinh tế. Thực tiễn ở nước ta đã cho thấy nhiều quy định cứng nhắc, áp đặt phương thức sản xuất, kinh doanh đã tạo rào cản đổi mới, sáng tạo của doanh nghiệp. Ví dụ, quy định về điều kiện kinh doanh thường yêu cầu văn phòng có diện tích tối thiểu, có máy móc, công cụ gì, công suất bao nhiêu, phù hợp với quy hoạch...

Cải cách thể chế - không thể trông chờ, không thể trì hoãn

Cải cách thể chế là quá trình thường xuyên, liên tục không có điểm cuối cùng. Một trong những tồn tại lớn hiện nay là quá trình cải cách thể chế phần lớn vẫn xuất phát từ chỉ đạo của Trung ương, từ quyết tâm của Chính phủ. Trong khi đó, các bộ, ngành là những cơ quan trực tiếp ban hành và tổ chức thực thi các quy định pháp luật lại chưa thể hiện được tinh thần chủ động, trách nhiệm cao trong việc rà soát, sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy định đã lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn. Không ít văn bản hành chính dù đã lạc hậu, cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng vẫn tồn tại dai dẳng qua nhiều năm hoặc có cắt giảm thì cắt giảm một cách hình thức. Đó không phải là cải cách chủ động, mà là sự cải cách bị động, không xuất phát từ nhu cầu nội tại hoặc lợi ích quốc gia-dân tộc.

Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân; và các nghị quyết của Chính phủ triển khai thực hiện các nghị quyết nêu trên. Nghị quyết số 68-NQ/TW lần đầu tiên Đảng xác định rõ khu vực tư nhân là khu vực quan trọng nhất trong nền kinh tế-một sự thay đổi lớn về quan điểm phát triển. Nghị quyết cũng đưa ra 3 điểm đột phá so với các chính sách trước đây: Đó là cắt giảm phiền hà, cắt giảm rủi ro; tăng sự bảo vệ và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn; khơi thông và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng khu vực kinh tế tư nhân.

Để quá trình thực thi chính sách hiệu quả, trước hết, tiếp tục coi hoàn thiện thể chế là một trụ cột quan trọng nhất trong các đột phá chiến lược hoặc có thể coi là đột phá nền tảng. Đồng thời, các văn kiện, nghị quyết của Đảng cần xem xét để nêu ra yêu cầu cụ thể hơn về nhiệm vụ, giải pháp cải cách, nâng cao chất lượng thể chế thúc đẩy phát triển doanh nghiệp. Giải pháp trọng tâm khác, Chính phủ cần nghiên cứu để có hướng dẫn cụ thể để các bộ, ngành, cơ quan thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về cải cách, nâng cao chất lượng thể chế theo yêu cầu của các nghị quyết gần đây của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Các cơ quan của Quốc hội tập trung thẩm tra các tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất, kinh doanh - chi phí tuân thủ, rủi ro, hạn chế đổi mới sáng tạo, cạnh tranh không bình đẳng, tác động không cân xứng đến doanh nghiệp nhỏ và vừa. 

Với yêu cầu thực tiễn như hiện nay, việc nghiên cứu và thiết lập một cơ quan cải cách thể chế chuyên trách, có thẩm quyền rõ ràng tại Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách nhằm tạo dựng một cơ chế cải cách thể chế chủ động, liên tục và có hiệu lực thực thi cao. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều quốc gia như Australia, Hàn Quốc, Anh, Hoa Kỳ đã thành lập các cơ quan chuyên trách có chức năng giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế. Cơ quan cải cách thể chế có các nhiệm vụ cơ bản là kiểm soát chất lượng quy trình soạn thảo; xác định các lĩnh vực trọng tâm để nâng cao chất lượng quy định; nâng cao chất lượng quy định một cách có hệ thống; làm đầu mối, phối hợp trong soạn thảo... Như vậy, các cơ quan này không chỉ kiểm soát chất lượng quy trình xây dựng pháp luật mà còn đóng vai trò trung tâm trong điều phối, đánh giá tác động trong việc đổi mới tư duy quản lý nhà nước.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động nhanh và phức tạp, thể chế pháp luật không chỉ là hàng rào bảo vệ lợi ích quốc gia mà còn là bệ phóng kiến tạo môi trường thuận lợi, minh bạch, công bằng cho mọi chủ thể trong nền kinh tế. Bỏ lỡ cơ hội cải cách chính là tự thu hẹp không gian phát triển quốc gia, là đánh mất thời cơ vươn lên trong cuộc đua đổi mới và tăng trưởng. Với quyết tâm chính trị cao, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng thuận của Quốc hội, Chính phủ, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để kiến tạo một hệ thống thể chế pháp luật hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng, bền vững trong kỷ nguyên mới.

PHAN ĐỨC HIẾU, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội

* Mời bạn đọc vào chuyên mục 80 năm hành trình độc lập - tự do - hạnh phúc  xem các tin, bài liên quan.