BHXH Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của cả nước trong phát triển kinh tế-xã hội, luôn nỗ lực để bảo đảm mỗi người dân đều được hưởng chính sách ASXH.

leftcenterrightdel
Thanh toán viện phí bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Việt Nam-Cuba Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ảnh: BẢO AN

Tại Hội thảo khoa học “Một phần tư thế kỷ góp phần sự nghiệp an sinh” do BHXH Việt Nam tổ chức mới đây, Phó tổng giám đốc BHXH Việt Nam Đào Việt Ánh đã khẳng định, hệ thống chính sách ASXH luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm bổ sung, hoàn thiện. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong thực hiện, nhưng BHXH Việt Nam luôn vượt qua mọi khó khăn để phát triển theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, hướng tới sự hài lòng của tất cả người tham gia BHXH, BHYT. Ông Đào Việt Ánh cho biết, trong khoảng 10 năm gần đây, ngành BHXH luôn tập trung thực hiện cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm từ 263 thủ tục xuống còn 27 thủ tục; thời gian giao dịch thực hiện thủ tục hành chính về BHXH, BHYT của các doanh nghiệp giảm còn 51 giờ/năm… Ngành cũng đẩy mạnh giao dịch điện tử, cung cấp 19 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4; triển khai cấp số định danh cho người tham gia BHXH, BHYT và khai trương trung tâm dịch vụ khách hàng để tư vấn, giải đáp cho người dân, người lao động về BHXH, BHYT... Hệ thống thông tin giám định BHYT đã kết nối, liên thông với các cơ sở khám, chữa bệnh BHYT trên toàn quốc. Với những thành tựu trên, BHXH Việt Nam đã được Bộ Thông tin và Truyền thông đánh giá là cơ quan triển khai hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin, dịch vụ công trực tuyến và được xếp hạng 2 trong bảng xếp hạng chung khối các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có dịch vụ công. Đến năm 2018, BHXH Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng này, đánh dấu bước tiến đáng kể của ngành trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý.

Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, diện bao phủ BHXH không ngừng tăng. Năm 1995 chỉ có 2,2 triệu người tham gia BHXH thì đến hết năm 2006 (năm đầu tiên Luật BHXH có hiệu lực) đã có 6,7 triệu người tham gia; đến hết tháng 8-2019 có 14,65 triệu người tham gia BHXH. Năm 2008, khi mới thực hiện BHXH tự nguyện, cả nước chỉ có 6.110 người tham gia, đến tháng 8-2019 tăng lên 437.000 người (tăng hơn 70 lần). Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng tăng từ 5,9 triệu người (năm 2009) lên 12,9 triệu người (tháng 8-2019). Đặc biệt, đến tháng 9-2019, tỷ lệ tham gia BHYT đã đạt hơn 89,8% trên tổng dân số. Cùng với sự gia tăng đối tượng tham gia, số thu BHXH, BHYT cũng liên tục tăng. Năm 2018, tổng số thu toàn ngành đạt 332.006 tỷ đồng, tăng 11,26 lần so với năm 2006, tăng 425,7 lần so với năm 1995. “Như vậy, diện bao phủ chính sách BHXH, BHYT đã không ngừng được mở rộng, mỗi năm đã có thêm hàng trăm nghìn người lao động, hàng triệu người dân được bảo vệ thông qua các chế độ BHXH, BHYT, góp phần bảo đảm an sinh và tạo sự an toàn, ổn định xã hội...”, ông Nguyễn Minh Tuấn, Viện trưởng Viện Khoa học BHXH (BHXH Việt Nam) khẳng định. Cũng theo ông Tuấn, trong 25 năm qua, ngành BHXH đã giải quyết hơn 112,5 triệu lượt người hưởng các chế độ BHXH, trong đó có gần 2,5 triệu người hưởng các chế độ BHXH hằng tháng; gần 10 triệu lượt người hưởng các chế độ BHXH một lần và hơn 100 triệu lượt người hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn. Hành lang pháp lý và cơ chế hoạt động cũng được hoàn thiện theo hướng chuyên nghiệp; quy mô đầu tư quỹ ngày càng lớn, số dư đầu tư và lợi nhuận thu từ đầu tư quỹ hằng năm đều tăng về số tuyệt đối; tỷ lệ lãi suất đầu tư bình quân luôn tăng trưởng dương, cao hơn tăng trưởng kinh tế và cao hơn chỉ số lạm phát…

Nhấn mạnh về những thành quả mà BHXH Việt Nam đã đạt được trong 25 năm để bảo đảm ASXH, ông Bùi Sỹ Lợi, Phó chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng, từ chỗ chỉ có các chính sách đơn lẻ về ASXH, như chính sách việc làm, BHXH bắt buộc, BHYT, giảm nghèo... đến nay, Việt Nam đã thiết kế được hệ thống chính sách ASXH với phạm vi bao phủ ngày càng rộng hơn và chất lượng ngày càng cao hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, theo ông Bùi Sỹ Lợi, chiến lược ASXH của Việt Nam cần phải tiếp tục được bổ sung, mở rộng, cơ cấu lại cho phù hợp với các nhóm chính sách cụ thể. Đó là nhóm chính sách phòng ngừa rủi ro, nhằm hỗ trợ tạo việc làm có thu nhập và chủ động tham gia thị trường lao động; nhóm chính sách giảm thiểu rủi ro nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT; nhóm chính sách bù đắp thu nhập khi người lao động bị suy giảm hoặc mất sức lao động; nhóm chính sách khắc phục rủi ro nhằm trợ giúp xã hội, giảm nghèo bền vững, tăng cường tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân. Trên cơ sở cấu trúc đó, Nhà nước thiết kế các chính sách ASXH mang tính hệ thống, lồng ghép, linh hoạt, đa dạng, phù hợp với các nhóm đối tượng khác nhau… để trên cơ sở đó thể chế hóa và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn.

 DIỆP CHÂU