QĐND - Thẩm văn được hiểu là bình giá, nhận xét một cách kỹ lưỡng, tinh tế về văn chương. Khái niệm này ngày nay ít dùng, ngay từ đầu thế kỷ 20 cũng đã được gọi là bình văn - “Kỳ bình văn khách đến như mưa” (Đông Kinh Nghĩa Thục). Nhưng xét về nghĩa từ nguyên thì “thẩm văn” mới đích đáng, sâu sắc hơn. Cùng nghĩa, ta vẫn dùng “thẩm mỹ”, tức cảm nhận, đánh giá về cái đẹp. Mỗi người, tùy vốn sống, tri thức, sự nhạy cảm, tâm thế tiếp nhận… mà có năng lực thẩm văn (thẩm mỹ) khác nhau. Đặc trưng của văn học là tính đa nghĩa, mỗi hình tượng đều được ký thác để mang trong mình nó lung linh những lớp nghĩa khác nhau, nên mỗi người đọc sẽ tìm ra một vẻ đẹp mới cho riêng mình. Nhưng điều quyết định vẫn là tài năng sáng tạo của nhà văn, như trường hợp “Truyện Kiều”, thì có bao thế hệ người đọc là có bấy nhiêu cách hiểu. Mang nhãn quan của đạo đức phong kiến mà cụ Nguyễn Công Trứ gọi cô Kiều là “con đĩ”, nhưng đến nhà thơ Tố Hữu đứng trên lập trường nhân dân thì khác hẳn, lại nhìn thấy ở Kiều là hiện thân của tình thương yêu… Xưa nay, văn chương “chín người mười ý”, sự khen chê là điều không lạ. Ngay đại tác gia W.Sếch-xpia cũng bị đại văn hào L.Tôn-xtôi chê là “không chịu được”. Văn hay văn dở là quyền nhận xét của mỗi độc giả, nhưng sự đánh giá phải thật sự chân thành (đi từ cái tâm người thẩm văn) và có căn cứ (từ thực tiễn các mối quan hệ hình tượng của tác phẩm).
Nhưng lại có quy luật văn chương hấp dẫn người đọc ở chính việc hay gây ra cái sự “vênh” nhau trong đánh giá. Tiếng cười dân gian Việt có câu chuyện “Ngửi văn” nói về điều “tréo ngoe” này. Có người mù làm nghề “ngửi văn” rất giỏi. Một ông Tú nọ văn thì dở nhưng lại được nhiều người khen hay làm ông ta tưởng thật, liền đến thử ông mù. Ông Tú đưa sách hỏi, ông mù trả lời là bộ “Tây sương ký” vì nó có mùi phấn hương. Đưa bộ tiếp được trả lời đó là “Tam quốc diễn nghĩa” vì nó có mùi binh đao. Ông Tú phục lắm bèn đưa thơ mình, ông mù nói ngay đó là thơ của chính ông Tú. Hỏi vì sao biết. Trả lời: "Vì nó có mùi thum thủm!!!". Thế là bao nhiêu người mắt sáng nhưng mắc bệnh nịnh hót (hoặc nịnh đểu) mà thua ông mù công tâm, thẳng thắn. Trong "Liêu trai chí dị" của Bồ Tùng Linh (Trung Quốc) cũng có truyện tương tự. Khi thực tế sai hẳn với dự đoán của mình, vị hoàng thượng mù chỉ còn cảm khái mà thốt lên: “Ta mắt mù nhưng mũi không mù, còn quan chấm thi thì mũi cũng mù nốt!”. Trong “Nho lâm ngoại sử”, một thiên truyện cười của người Tàu, có kể một ngài Chu Tiến “giám khảo” thấy một trò đã thi hai mươi lần vẫn chưa đỗ bèn thương hại mà cho đậu. Ngài quyết đọc thật kỹ bài thi cố tìm ra cái hay để khả dĩ mà cho điểm cao lên. Và ngài đọc, càng đọc càng thấy bài thi này cực hay, “mỗi chữ là một hạt ngọc”. Thì ra cảm nhận văn chương ở thời xưa là rất cảm tính, thích thì thấy hay, không thích thì thấy dở…
Ở thời nay, để khắc phục lối đọc văn lạc hậu xưa cũ ấy, lý luận văn học đưa ra nhiều cách đọc khoa học, tránh suy diễn quá xa. Nhưng dù hiện đại, mới mẻ đến đâu thì người ta cũng phải qua khâu đầu tiên là phải đọc kỹ. Thế mà, vì quá bận, bận trăm công với ngàn việc, lại vì bị văn hóa nghe nhìn lấn át… mà có nhiều người không đọc nhưng vẫn có những nhận xét như “đinh đóng cột” về cái mình chưa biết. Do vậy mà có nhiều bài điểm sách, nhiều bài phê bình thường rất công thức, điểm về đề tài, về nội dung phản ánh, về thế giới nhân vật, về kết cấu, về hình ảnh, về nghệ thuật ngôn từ, thêm một tí giọng điệu… Dĩ nhiên không phải tất cả những bài nhạt nhẽo kiểu này đều do người viết không đọc sách, nhưng vì ít sáng tạo, thiếu cảm hứng và suy nghĩ thấu đáo nên trang văn rỗng tuếch. Viết kiểu này thì đọc cũng như không đọc…
Và có những hội đồng trao giải thưởng cho những cuốn không đúng với tôn chỉ mục đích cuộc thi, sách in quá hạn… có khi còn trao giải cho cả những cuốn dở!!!
Ngày xưa, dân gian cười người mù “ngửi văn”, cười giám khảo vừa dốt vừa thiếu công tâm, nhưng hình như những người bị cười ấy vẫn còn có lương tâm là họ còn “ngửi”, còn đọc. Ngày nay, với những người không hề đọc và cũng chẳng “ngửi” mà vẫn xưng xưng cho lời nhận xét và cho điểm thì… gọi họ là gì nhỉ???
THANH NGUYÊN