QĐND - Việc xây dựng Hồ sơ quốc gia di sản về hát Then đệ trình UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đã nhận được sự đồng thuận của 12 tỉnh lưu giữ nghệ thuật hát Then. Đây là tín hiệu vui để loại hình nghệ thuật đặc sắc bậc nhất của cộng đồng các dân tộc Tày-Nùng-Thái tiếp tục được bảo tồn và phát huy giá trị di sản dân tộc mình.

Tín ngưỡng và nghệ thuật

Then là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lâu đời của người Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam. Hiện, Then vẫn đang là hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, tồn tại mạnh mẽ trong cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng, Thái trắng ở 12 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hà Giang, Quảng Ninh, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Bắc Giang, Yên Bái và Đắc Lắc. Nhưng điều đặc biệt là tín ngưỡng ấy được nâng tầm thành nghệ thuật bởi sự kết hợp độc đáo giữa hát, múa, âm nhạc. Then của mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi địa phương đều có những nét chung và những đặc trưng riêng.

Ở khía cạnh tôn giáo, tín ngưỡng, Then là nghi lễ có khả năng chữa bệnh, gắn chặt với đời sống tâm linh của cộng đồng.

Hát Then của các dân tộc Tày, Nùng, Thái đang được tiến hành lập Hồ sơ Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại trình UNESCO.

Tại hội thảo khoa học về hát Then vừa được Học viện Âm nhạc Quốc gia tổ chức trung tuần tháng 6 vừa qua, GS, TS Ngô Đức Thịnh-Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam nhận định: “Then là hình thức tín ngưỡng dân gian tiêu biểu của dân tộc Tày, Nùng. Nó không chỉ chi phối đời sống tâm linh của người dân mà còn để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa nghệ thuật của dân tộc. Nghi lễ Then thể hiện qua việc nhập hồn và xuất hồn, trong đó, nhập hồn các thần linh vào thân xác các bà Then, ông Then để cầu an, giải hạn, chữa bệnh, bói toán… Tuy nhiên, Then sản sinh và tích hợp các giá trị văn hóa nghệ thuật trở thành một thứ sân khấu tâm linh thỏa mãn các nhu cầu tâm linh và thưởng thức văn hóa nghệ thuật của quần chúng nhân dân”.

Ở khía cạnh nghệ thuật, Then còn phối hợp giữa hát với múa, với nhạc và có sự đối đáp giữa người dự lễ với ông Then, bà Then tạo thành một sân khấu tâm linh.

GS Đặng Hoành Loan cho biết: “Nhạc trong Then là đàn Tính và xóc nhạc. Nó thường được tấu lên vào những lúc khởi đầu một buổi lễ hoặc khởi đầu một chặng đường Then mới, sau những phút nghỉ giữa chừng của thầy Then. Không chỉ thế, những khúc độc tấu đàn Tính còn là sự thể hiện tài năng diễn tấu, ứng tác của mỗi thầy Then. Khó có thể tìm được sự giống nhau ở mỗi ngón đàn, không chỉ ở mỗi vùng Then mà ở ngay mỗi dòng Then, mỗi thầy Then”.

Đồng thuận xây dựng và bảo tồn di sản Then

Tuy nhiên, cũng như nhiều di sản văn hóa phi vật thể khác, hát Then đang đối mặt với nguy cơ mai một nghệ nhân. Là một trong những tỉnh bảo tồn tốt di sản hát Then, ông Mã Đình Hoàn-Ban Quản lý Di tích và Danh thắng tỉnh Yên Bái chia sẻ: “Những năm vừa qua, Yên Bái đã tổ chức mời các nghệ nhân hướng dẫn, truyền dạy loại hình nghệ thuật này, truyền dạy chữ Thái cổ cho thế hệ trẻ, vinh danh một số nghệ nhân người Tày, Nùng, Thái trong việc bảo tồn hát Then. Các cấp, các ngành và cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Yên Bái vẫn tiếp tục duy trì nghệ thuật này không chỉ trên sân khấu mà còn diễn ra trong ngày lễ, tết, tổ chức cầu an, cầu may, mừng thọ…”.

Tuy nhiên, ông Hoàn cho rằng, công tác bảo tồn di sản này vẫn còn nhiều hạn chế. Để Then sống trong cộng đồng một cách tự nhiên, bền vững, phải có sự quan tâm về vật chất, hỗ trợ cho các nghệ nhân để họ tâm huyết truyền dạy làn điệu Then cho thế hệ trẻ.

Ông Phùng Quang Mười, Sở VH-TT&DL Lào Cai, cho biết: “Hiện nay, ở nhiều địa phương, số lượng nghệ nhân biết về Then ngày càng ít đi, mặt khác, một số người vẫn cho rằng, đây là loại hình sinh hoạt mê tín dị đoan, do vậy, lễ Then và hát Then trong tương lai vẫn tiềm ẩn nguy cơ bị mai một”.

Để khắc phục điều này, ông Mười đề xuất: “Các cấp chính quyền cần nhận thức rõ, môi trường diễn xướng các lễ Then không phải là hình thức mê tín dị đoan, mà là một trong những nét sinh hoạt văn hóa độc đáo. Những nghệ nhân nắm giữ di sản Then cần có trách nhiệm trao truyền những hiểu biết của mình cho lớp trẻ để có sự kế thừa. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ nghệ nhân, hỗ trợ quảng bá, nghiên cứu sưu tầm, kiểm kê di sản Then. Tổ chức các liên hoan từ cấp xã, huyện, tỉnh nhằm khích lệ người dân tự hào về giá trị của Then trong đời sống cộng đồng”.

Hiện tại, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đã đề xuất với Bộ VH-TT&DL, Cục Di sản văn hóa cho phép xây dựng Hồ sơ quốc gia về Then. Cuối năm nay, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam sẽ tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế về di sản hát Then. Bên cạnh đó, phối hợp với 12 Sở VH-TT&DL lưu giữ nghệ thuật hát Then để xây dựng chương trình hành động, nhằm thống nhất xây dựng Hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận hát Then là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây sẽ là một tiền đề để di sản hát Then được bảo tồn và phát triển bền vững trong cộng đồng.

Bài và ảnh: HẠNH AN