Chỉ xin đơn cử một trường hợp là di sản lý luận trong trước tác Nguyễn Trãi.
Chúng ta cần nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn tác phẩm của Danh nhân văn hóa kiệt xuất Nguyễn Trãi. Có khi chỉ một hình tượng nhưng cần đặt vào nhiều góc độ để xem xét. Ví như có người cho rằng, Nguyễn Trãi “nệ” thi liệu văn học nước ngoài khi đưa hình ảnh “tuyết” vào thơ. Chúng tôi đồng tình với Giáo sư Mã Giang Lân cho rằng, “tuyết” ở đây có nghĩa thực (xin xem Mã Giang Lân-Những cấu trúc của thơ. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, tr166). Nguyễn Trãi sống cách nay đã 600 năm. Hơn trăm năm gần đây, do chịu ảnh hưởng mặt trái của công nghiệp phát triển mà nhiệt độ thế giới tăng cao rõ rệt. Thế thì không thể căn cứ vào ngày nay để nói thời Nguyễn Trãi sống xứ ta không có tuyết. Điều này Ức Trai đã có triết lý tuyệt vời về quan hệ các thời điểm như nhắn nhủ điều này cho thế hệ sau: “Mạc tương tiền thế phan kim đại” (Chớ lấy việc đời trước mà vin vào đời nay-“Hạ tiệp III”). Ngày nay hay nói xem xét vấn đề phải đứng trên quan điểm lịch sử cụ thể thì Nguyễn Trãi nói ngắn gọn mà rõ ràng hơn, trước 600 năm. Ông xứng đáng là một trong những nhà duy vật biện chứng lịch sử đầu tiên của nước ta.
Có người căn cứ vào trước tác lý luận của cha ông rồi nói chúng ta không có truyền thống lý luận. Cha ông ta ít nói về lý luận là có cơ sở nhưng không có truyền thống thì chưa hẳn. Vì còn phải tìm lý luận trong sáng tác. Ví dụ hai bài thơ chữ Hán của Ức Trai. Bài “Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết hiên” là một triết lý nghệ thuật cho rằng, chỉ cái đẹp đích thực mới có thể chinh phục được con người, bất kể người đó là ai: “Trãi quan nga nga diện tự thiết/ Bất độc ái mai kiêm ái tuyết/ Ái mai ái tuyết ái duyên hà?/ Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết” (Hiên ngang mũ trãi, quan mặt tựa sắt/ Không những yêu mai mà còn yêu cả tuyết/ Yêu mai yêu tuyết bởi sao vậy?/ Vì tuyết trắng và mai thanh khiết). Mũ trãi là mũ của quan Ngự sử có khắc hình sừng con trãi, loài thú một sừng, trong truyền thuyết con vật này gặp người xấu thì húc. Do vậy mũ này tượng trưng cho sự công minh, chính trực, ghét cái xấu. Quan dù “mặt sắt” lạnh lùng nhưng trước cái đẹp chân chính cũng phải yêu mến. Trong bài “Mạn thành II”, Ức Trai như một vị tiên lánh trần để vui với cái đẹp. Đói thì ăn rễ tùng và hớp ánh sáng (Cơ thực tùng căn tước nhật hoa) nhưng vẫn vui say với bầu trăng gió đẹp (Đồ giác hồ trung phong nguyệt hảo). Cứ như thế có thể năm này đến năm khác chẳng tốn một đồng tiền (Niên niên bất dụng nhất tiền xa). Chỉ qua hai bài này Nguyễn Trãi đã đưa ra quan niệm nghệ thuật hiện đại: Nghệ thuật phải là cái đẹp đích thực, là địa hạt của sự vô tư, lánh cái tục, không thiên vị. Để sáng tạo và nhận thức nghệ thuật, con người ta phải có cái tâm trong suốt, phải “trần vô bán điểm” (bụi không nửa điểm bợn) mới có thể hiểu, tri âm với cái đẹp. Xây dựng lý luận nghệ thuật hiện đại cho hôm nay phải kế thừa tư tưởng kinh điển này của Ức Trai!
Như vậy, chúng ta có cả một kho vàng lý luận còn chìm trong các sáng tác văn chương. Chỉ có điều phải bỏ công tìm tòi suy ngẫm bởi chúng ẩn sâu trong các hình tượng thẩm mỹ chứ không hiển hiện khô cứng ra bên ngoài.
Chúng tôi muốn nhắc lại lời Bác Hồ, sáng suốt, sâu sắc, tinh tế vô cùng: “Muốn thấy hết cái hay cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta, thì phải đừng bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây, phải dựa trên tiêu chuẩn của ta… Tiêu chuẩn ấy là gì? Đó là nền mỹ học ẩn chứa trong thực tiễn truyền thống nghệ thuật dân gian” (Mịch Quang. Khơi nguồn mỹ học dân tộc, 2004. Nxb Chính trị Quốc gia, tr8). Dĩ nhiên, chúng ta phải hiểu là trong cả thực tiễn sáng tạo bác học nữa, như Nguyễn Trãi là một minh chứng. Vì dân gian là mạch nguồn của bác học!
NGUYỄN THANH TÚ