(Tùy bút)

Làng quê họ nội nhà tôi xưa nay chẳng ai biết đến. Nằm lọt giữa cái huyện có tên thật đẹp Tiên Du của vùng Kinh Bắc nổi tiếng trù phú, văn vật, đất lề quê thói, mà làng tôi chả có gì để người ta chú ý. Tên làng xa xưa nôm na là Ném, chuyển sang tên "chữ" phải chăng Kẻ Ném thành Khắc Niệm. Ném hay Khắc Niệm cũng vậy thôi, có đặc sản gì nào? Không. Làng thuần nông nghèo. Có công tích, chiến tích hay phong trào nào nổi bật trong lịch sử xa xưa, trong cả gần thế kỷ cách mạng và kháng chiến? Khó kể quá, cùng lắm cũng chỉ là không thua chị, kém em so với một số làng lân cận. Cái việc học, cái sự nghèo làng tôi cũng nằm ở tốp cuối của huyện. Quan họ cũng có đấy, lại có cả tuồng, chèo một thủa... nhưng nếu như Kinh Bắc có 49 làng Quan họ thì làng tôi chỉ xếp tạm đẩu đâu thứ sáu mươi, bảy mươi...

Làng tôi xưa nhiều đầm, ao, đồng chiêm, là đoạn cuối của mương máng dẫn nước, đoạn cuối của hệ thống điện lưới, là vùng trũng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng của huyện, của tỉnh. Thế mà làng tôi lại cũng có những dấu tích của một thời văn minh Lý-Trần. Ấy là ngôi chùa cổ khởi dựng từ thời Lý, toạ lạc trên đỉnh núi Chùa trông sang chùa Trăm Gian và cột đá núi Dạm nổi tiếng của vương triều nhà Lý. Làng tôi lại có dấu tích của một thủa Hào khí Đông A thời Trần. Có dấu tích một ngôi nghè thờ một vị tướng chống giặc Mông-Nguyên. Hội làng ngày mồng 6 Tết có tục chém lợn tưởng nhớ vị tướng nhà Trần khi thắng trận qua quê tôi mở hội khao quân. Đình làng tôi tương truyền cũng dựng thời Lê Sơ, một đỉnh cao khác của văn minh Đại Việt...

Làng tôi trũng và khuất nẻo nhưng không ở ngoài vùng chiếu sáng của văn minh, và cũng từng hừng hực trong những vận hội hào khí của đất nước.

Năm 2006 này, vì việc họ hàng, làng xóm, tôi hay được về thăm quê. Bữa cỗ quê với chén rượu quê chua chua, nhạt nhạt, vương cả chút tro rơm rạ vậy mà toàn nói chuyện làng, chuyện nước. Họ thuộc đủ thành phần: các cụ, lớp trung niên và lớp trẻ, người thì quanh năm bám ruộng đồng, người lần hồi đi Lạng Sơn bán gạo, buôn hàng tầm tầm, người bộ đội xuất ngũ, anh khác đi phụ nề, lao động ngoại tỉnh, người xuất khẩu lao động thủ công.

Nghe họ kể chuyện rôm rả, tôi biết bà con vùng trũng quê tôi không những không nằm ngoài vùng phủ sóng của văn minh, hào khí đất nước mà nhận thấy từ mỗi người dân quê mùa, những người lao động chân đất, thủ công, đơn giản cũng đang được hưởng, cũng là những tác nhân nhỏ bé góp sức vào những thay đổi ở ngay quê tôi, ở nhiều vùng đất nước. ASEAN, APEC, WTO ư…, họ không ngoài cuộc.

Đường vào làng cổ Đường Lâm (ảnh ngoisao.net)

Mừng hơn, độ này những vụ kiện cáo, đơn thư từ làng tôi đã nguôi nhiều phần. Giống với nhiều làng quê, khi đã có hơi hướng đô thị hoá, khi đã có một số nhà máy, xí nghiệp về cắm trên đồng đất quê hương là y như sinh chuyện bán đất, bán đồng, là có chuyện nhập nhèm, hà lạm, chuyện bất công. Đơn thư thì cứ đơn thư, nhưng tin cứ tin và làm cứ phải làm, làm để có cái ăn cái học và làm giàu, giàu vì nhà mình, vì làng, vì nước.

Làng-nước, ở Việt Nam ta có bao giờ tách nhau. Làn gió đổi mới, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập và phát triển đã và đang tràn về mọi vùng quê đất nước. Cảnh sắc và lòng người mỗi năm mỗi tươi mới. Người dân bình thường đâu đã hiểu rõ những việc lớn của đất nước, những tổ chức quốc tế, những cơ hội, thách thức gì phía trước nhưng họ tin vào một vận hội mới khi mảnh đất quê hương đã thêm nhiều công trình, sắc màu mới, khi cuộc sống đang tốt đẹp lên. Có người dân Việt Nam nào không nhớ lời ước nguyện, lời cổ vũ của Bác Hồ "Để nước ta có thể sánh vai với các cường quốc năm châu". Lời ấy Bác nói khi đất nước còn đang tăm tối, hơn 90 phần trăm dân số còn mù chữ, vận nước đang ở hồi ngàn cân treo sợi tóc với đủ thứ thù trong giặc ngoài. Vậy mà ý nguyện của Bác đã nằm sâu trong mỗi cõi lòng người dân. Với ý nguyện và ước vọng lớn lao ấy, toàn dân Việt Nam đã ra trận để góp gió thành cơn bão hào khí đánh giặc. Trận mạc tàn khốc lan đến mọi vùng quê hương đất nước suốt 30 năm ròng và hơn thế nữa để có hôm nay. Cả thế kỷ 20 lo cứu nước để có vận hội xây dựng đất nước. 30 năm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tiếp đến 30 năm tìm đường mở lối thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu cũng là 30 năm đấu tranh dũng cảm vun vén, xây đắp từng ngày cho những tư duy mới, công trình mới, nhân tố mới để bứt vượt khỏi lề thói cũ, cách nhìn, cách làm lạc hậu, để có vận hội lớn mở mang đất nước những năm tháng này. Lòng người mở hội bởi khát vọng hòa bình, yên ổn sánh bước, sánh vai với thiên hạ đã hiển hiện nơi cuộc sống của chính họ.

Lòng người dân mở hội bởi tin Đảng, tin ở chính mình. Trải bao cơn sóng gió ngặt nghèo của vận nước, trải qua những cắc cớ, rủi ro, đau đớn khi đây đó xảy ra những sai lầm, lệch lạc để mỗi người dân càng hiểu, càng vững tin vào những cánh tay chèo lái con tàu đất nước.

Hôm nay, đất nước vẫn chưa thoát khỏi vùng trũng của sự thiếu thốn, lạc hậu, chậm phát triển, cuộc sống người dân còn nhiều bức bối, ưu phiền, tệ nạn, tật bệnh, bất công nhưng vầng sáng của ấm no, bình đẳng, dân chủ, văn minh đang lan toả, đang làm sâu đậm lòng tin trong mỗi người dân.

Năm 2006 là cột mốc lớn của lòng tin ấy. Lòng tin trước hết thuộc về Đảng. Đại hội X với Nghị quyết và tổ chức, nhân sự, Đại hội X hành động đã tạo thế cho dân, cho nước những bước đi rõ ràng, kiên quyết. Nhìn thẳng vào sự thật, động viên từng ngành, từng giới, từng địa phương nói rõ sự thật và hiến kế, bàn giải pháp, cùng bắt tay giải quyết từng bước, từng mảng việc, chúng ta làm nên năm 2006 với những thành quả nhãn tiền. Năm 2006 là năm của các kỷ lục xuất khẩu và thu hút đầu tư. Năm 2006 là năm sôi động chưa từng thấy trong các hoạt động mở mang doanh nghiệp, trong hoạt động tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán. Năm 2006 là năm của Việt Nam APEC, Việt Nam WTO, Việt Nam bình thường hoá quan hệ thương mại vĩnh viễn với Hoa Kỳ qua PNTR, Việt Nam được châu Á tín nhiệm đề cử vào ghế thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Năm 2006 là năm Đảng ta, toàn dân ta tuyên chiến và ra tay quyết liệt chống tham nhũng, tiêu cực, chống các thứ tật bệnh vốn đã ủ sâu trong cuộc sống như quan liêu, vô cảm, như bệnh thành tích, bệnh hành chính...

Năm 2006 là năm của lòng người kết tụ vượt qua ý trời thử thách. Qua những cơn bão với sức tàn phá không ngờ, càng thấy, càng hiểu sức kết đoàn, đùm bọc của nước, của làng. Năm 2006 cũng là năm bà con người Việt trên khắp thế giới hướng về Đất Mẹ với lòng tin quê hương khởi sắc, quê hương không chỉ là cội nguồn, là nghĩa, là tình mà còn là miền đất của những cơ hội làm ăn phát đạt.

Năm 2006 viết lên trời xanh một trang mới của hào khí, văn minh nước Việt, hào khí và văn minh của nội lực và hoà nhập sánh vai cùng thiên hạ.

Tết này, làng Ném quê tôi và mọi làng quê khác chắc hẳn sẽ ăn tết to, vui lắm.

Mạnh Hùng