(Đọc sách “Nghi lễ và phong tục các tộc người ở Tây Nguyên”)

Có lẽ, đây là lần đầu tiên một tập hợp những bản luận văn cao học được in thành sách. Quý giá hơn, đó cũng là những công trình nghiên cứu cực kỳ chi tiết, với những phát hiện độc đáo về văn hóa tinh thần của các dân tộc Tây Nguyên.

Nhà văn Nguyên Ngọc đã viết về “Nghi lễ và phong tục các tộc người ở Tây Nguyên” (NXB Khoa học xã hội, tháng 8-2006, GS.TS Ngô Đức Thịnh tuyển chọn và giới thiệu): “Được đọc các luận văn trên đây về Tây Nguyên thật sự là một niềm vui, cả ngạc nhiên, và tôi nghĩ tôi không nói quá đâu, đôi lúc thậm chí còn kinh ngạc nữa… Có cả một bộ từ điển triết học bách khoa vô tận ở các dân tộc này được biểu hiện trong các nghi lễ khác nhau, và qua các luận văn này các anh chị học viên cao học Tây Nguyên đã bước đầu khai mở kho tàng vô giá đó cho chúng ta. Một bước đầu, tất nhiên, song quả là một bước mở đầu đầy triển vọng và hấp dẫn biết bao”.

Năm 2001, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian (nay là Viện Nghiên cứu văn hóa) được sự phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, đã triển khai dự án “Điều tra, sưu tầm, biên dịch, xuất bản và bảo quản kho tàng sử thi Tây Nguyên”. Khi triển khai dự án, một vấn đề đặt ra là cần có một đội ngũ cán bộ người dân tộc bản địa tham gia vào các khâu điều tra, sưu tầm, đặc biệt là phiên dịch và sau này là nghiên cứu, bảo tồn, phát huy di sản trong xã hội hiện đại. Nhận thức được việc đó, Viện Nghiên cứu văn hóa đã tiến hành khóa đào tạo cao học văn hóa dân gian đầu tiên dành cho người dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên. Lớp cao học này có 12 học viên, đến từ các dân tộc Ê-đê, Mnông, Xtiêng, Ba-na, Xơ-đăng, Hrê, Gia-rai. Đó là các tộc người có dân số đông, văn hóa truyền thống phong phú và đóng vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của mảnh đất Tây Nguyên.

12 luận văn cao học của lớp cao học văn hóa dân gian đầu tiên này đều đạt kết quả xuất sắc và giỏi. Trong đó, đã có một vài luận văn có được sự tìm tòi về hình thức tư duy, diễn đạt và thể hiện nội dung khoa học, khiến người đọc phải kinh ngạc và thán phục như: "Nghi lễ vong đời của người Ê-đê Adham ở Buôn Tria" của Y-chen Ni-ê, "Diễn biến trong tang lễ cổ truyền của người Mnông Rlâm ở U-ôn Dlei"- Y Tuyn Bing, "Lễ bỏ mả của người Gia-rai Chor buôn Ta Li"- Kpă Tô Nga, "Tang ma của người Ca Dong ở làng Nước Cua"- Y Hồ... Các tác giả viết về một số lễ tục của các dân tộc ở Tây Nguyên không chung chung mà cụ thể ở từng dân tộc, và trong mỗi dân tộc đó lại đi vào cụ thể từng nhánh, từng nhóm nhỏ, từng bản. Không những thế, các điều tra dân tộc học đều trân trọng, kỹ càng, và trong một số trường hợp đã đạt đến độ tinh tế.

Điển hình là luận văn “Quan niệm về linh hồn và các nghi lễ liên quan tới linh hồn của người Xơ-teng ở Tu Mơ Rông” của học viên Phạm Thị Trung. Nhóm người Xơ-teng là một nhánh nhỏ của tộc người Xơ-đăng, chỉ có 948 nhân khẩu, ở huyện Đắc Tô, tỉnh Kon Tum. Phạm Thị Trung đã đi vào chi tiết của lễ khai tâm ở làng Xơ-teng Tu Mơ Rông. Đứa bé mới sinh ra thì chưa thành người, vì nó còn chưa có hồn, chính trong lễ khai tâm, nữ thần Jă Ka Đo mới đặt vào thân thể nó, vốn được nặn ra từ đất, một quả tim để nó có hồn và từ đó mới thành người. “Và đứa bé chỉ được đặt quả tim để thật sự thành người khi nó chịu chấp nhận một điều kiện này: nó chấp nhận một số phận làm người, tức cụ thể là chấp nhận sẽ có một cái chết, sẽ sống bao nhiêu năm đó, với một thân phận như thế nào đó, và rồi sẽ chết vào lúc nào đó, theo cách nào đó…”.

Phạm Thị Trung cũng cho biết rằng, theo người Xơ-teng, con người có 6 linh hồn (người Việt có “ba hồn bảy vía”). Trong số 6 linh hồn đó, ngoài linh hồn thứ nhất gọi là “mơ hua môi” phụ trách hơi thở, máu và nhịp tim…, 5 linh hồn kia phụ trách các đức tính cần thiết của con người để cho một con người có thể sống đúng là người: một linh hồn phụ trách đức hòa hiếu trong gia đình; một linh hồn giữ cho người ta lao động chăm chỉ, lại khéo léo, tài ba trong công việc; một linh hồn lo về tính hiếu khách; linh hồn thứ 5 phụ trách đức thật thà; còn linh hồn thứ 6 bảo đảm một việc hết sức quan trọng là giữ cho con người luôn biết tôn trọng các quy phạm với thần linh…

Việc sưu tầm, nghiên cứu, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số không gì tốt hơn là sử dụng chính những người dân tộc ấy. Bởi lẽ, ngoài lợi thế về ngôn ngữ, họ còn được sinh ra và lớn lên cùng dân tộc ấy, nên trong con người họ đã có sẵn những nền tảng văn hoá của dân tộc ấy. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là hiện còn quá hiếm những người dân tộc thiểu số được trang bị đầy đủ kiến thức cho việc sưu tầm, nghiên cứu văn hoá dân gian. 12 cử nhân cao học văn hóa dân gian của khóa đầu tiên chưa phải là nhiều. Nhưng đó sẽ là những hạt nhân nòng cốt và là bước khởi đầu thuận lợi trong việc đào tạo ngày càng nhiều những cử nhân cao học người dân tộc thiểu số. Để từ ấy, họ trở thành những nhà nghiên cứu văn hóa của chính dân tộc họ. HUY QUÂN