QĐND - Người đứng đầu nhà nước hay còn gọi là nguyên thủ quốc gia (Quốc trưởng, Tổng thống, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước…) là một trong những chế định rường cột trong Hiến pháp của các quốc gia, giữ một vị trí đặc biệt trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Thực tế cho thấy không thể có một mô hình chung về người đứng đầu nhà nước cho tất cả các quốc gia thậm chí, với các quốc gia cùng chính thể. Ở Việt Nam, từ khi chính thể dân chủ cộng hòa được thành lập (tháng 9-1945) tới nay, về cơ bản, nguyên thủ quốc gia của chúng ta được tổ chức theo mô hình Cộng hòa đại nghị định hướng Xã hội chủ nghĩa và chỉ có một đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình đó, chế định Chủ tịch nước ở Việt Nam cũng có những thay đổi đáng kể. Trong hai Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 thì Chủ tịch nước là cá nhân và được thể chế theo mô hình có khá nhiều quyền năng, đặc biệt là người đứng đầu và lãnh đạo hành pháp (Hiến pháp năm 1946) hoặc tuy không đứng đầu Chính phủ nhưng có quyền quan trọng trong lãnh đạo Chính phủ (Hiến pháp năm 1959). Tuy nhiên, đến Hiến pháp năm 1980 thì Chủ tịch nước lại là “chủ tịch tập thể” và sự can thiệp đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng trở nên hình thức nhiều hơn. Đến Hiến pháp năm 1992, rút kinh nghiệm từ mô hình trước đó, đã trở lại với quy định Chủ tịch nước là cá nhân và nhờ đó, việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người “đứng đầu Nhà nước, thay mặt cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại” tốt hơn so với Hiến pháp năm 1980. Điều đó cho phép rút ra bài học kinh nghiệm về lập trường kiên định, tránh rập khuôn, tôn trọng các nguyên tắc phổ biến trên thế giới cũng như đặc thù của quốc gia cho việc thiết kế chế định Chủ tịch nước ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Thiết nghĩ, trong điều kiện của nước ta, thiết kế chế định Chủ tịch nước nên theo quan điểm: Phải thật sự là người đứng đầu Nhà nước với những quyền năng phù hợp và mạnh mẽ về hiệu lực, hiệu quả thực tế; làm nhiệm vụ điều hòa, phối hợp và kiểm soát cả ba nhánh quyền lực nhà nước: Lập pháp, hành pháp, tư pháp và đặc biệt, bằng phương thức hợp lý phải lãnh đạo hành pháp phù hợp với yêu cầu của cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, Dự thảo Hiến pháp phải xây dựng theo hướng mở rộng phạm vi và tăng cường hiệu lực thực tế đối với các quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch nước trong lập pháp, hành pháp, tư pháp và trong tư cách là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Mặt khác, để tinh gọn tổ chức bộ máy và tăng cường khả năng phối hợp linh hoạt, nhạy bén giữa lãnh đạo chính trị với điều hành đất nước, thì thiết kế chế định Chủ tịch nước còn phải đáp ứng những yêu cầu của hội nhập quốc tế về phương diện ngoại giao chính trị mà Chủ tịch nước là người đại diện cho quốc gia, quốc thể.
Với quan điểm đó, xem xét chế định Chủ tịch nước trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có thể nhận thấy Dự thảo đã cố gắng bảo vệ những quy định mang tính nguyên tắc của chế định nguyên thủ quốc gia ở Việt Nam vốn được thiết định từ năm 1946 và nhất là của Hiến pháp năm 1992. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về Chủ tịch nước vẫn giữ kết cấu 8 điều như Hiến pháp năm 1992; thứ tự của các điều không có sự thay đổi đáng kể nhưng một vài điều đã có sự kết cấu, diễn đạt lại cho gọn và hợp lý hơn. Điển hình là Điều 93 mới với 6 khoản đã tích hợp, sắp xếp lại những nội dung của Điều 103 cũ (12 khoản), làm cho các quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của Chủ tịch nước gọn hơn. Đồng thời, trong Dự thảo còn cụ thể hóa một số chức danh, hàm cấp trong các lực lượng vũ trang mà Chủ tịch nước có quyền phong hàm, cấp; quy định về trường hợp Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của mình…
Tuy nhiên, Dự thảo cũng cho thấy một số điểm bất cập trong chế định Chủ tịch nước mà theo đó, cần có phương án điều chỉnh cho phù hợp hơn:
Thứ nhất, với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch nước cần phải được thể hiện một cách hợp lý ở ba nhánh quyền lực nhà nước nhưng điều này chưa được thể hiện đúng mức trong Dự thảo, cụ thể là:
- Với quyền lập pháp của Quốc hội, Chủ tịch nước nên có quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại (chứ không phải phủ quyết) những luật mà mình chưa đồng tình trong một giới hạn thời gian nhất định và Quốc hội không được từ chối quyền này. Nhưng sau khi thảo luận lại, nếu có ít nhất 2/3 đại biểu Quốc hội đồng ý không sửa đổi luật đó thì Chủ tịch nước phải ra Lệnh công bố luật. Điều này rất quan trọng trong bối cảnh Quốc hội nước ta là một viện duy nhất.
- Với quyền hành pháp của Chính phủ, để phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì về nguyên tắc, nên thiết kế mô hình Chủ tịch nước như một phần của hành pháp, đứng đầu và lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ. Với tinh thần đó, có thể thấy quy định của Điều 95: “Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước” là chưa thể hiện đúng quan điểm mở rộng quyền của Chủ tịch nước đối với Chính phủ. Bởi vì, nếu với những vấn đề khác tuy không thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước nhưng là những vấn đề trọng đại, liên quan đến quốc kế dân sinh thì lẽ nào Chủ tịch nước không có quyền yêu cầu? Đồng thời, ở Điều 95 cần quy định thêm: “Chủ tịch nước chủ tọa những phiên họp do mình yêu cầu”.
- Với quyền tư pháp, để thực hiện có hiệu quả hơn sự phân quyền giữa Quốc hội và Chủ tịch nước thì nên quy định Chủ tịch nước có quyền trực tiếp (mà không cần phải căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội) bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán của Tòa án nhân dân theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Đồng thời, thẩm quyền đó cũng áp dụng với Phó viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Mặt khác, để tạo ra tính thống nhất trong hệ thống pháp luật nên bổ sung vào Khoản 3, Điều 93 về quyền của Chủ tịch nước trong việc xét ân giảm đối với bản án tử hình mà Khoản 2, Điều 258 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm c, Khoản 4, Điều 59 của Luật Thi hành án hình sự đã quy định.
Thứ hai, với tư cách là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân, nên quy định Chủ tịch nước là người trực tiếp quyết định và công bố quyết định về tình trạng chiến tranh; ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; tình trạng khẩn cấp mà không cần căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hay của Ủy ban Thường vụ Quốc hội như Dự thảo đã nêu. Như vậy, sẽ phù hợp hơn với thực tế, nhất là trong tình trạng khẩn cấp của cả nước hay từng vùng.
Thứ ba, thực tế trong thời gian dài cho thấy một nguyên nhân rất quan trọng ảnh hưởng tới hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chủ tịch nước là chưa có Luật Tổ chức Chủ tịch nước. Đây là một khiếm khuyết rất lớn trong hệ thống pháp luật cũng như trong tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta. Vì vậy, để cụ thể hóa 8 điều quy định về Chủ tịch nước trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, cần phải khắc phục khiếm khuyết này bằng việc soạn thảo và ban hành Luật Tổ chức Chủ tịch nước trong tiến trình sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhằm bảo đảm tính hợp hiến, tính đồng bộ và kịp thời của hệ thống pháp luật nước ta.
Thứ tư, để bảo đảm cho Chủ tịch nước hoạt động trong điều kiện tốt nhất về sức khỏe, minh mẫn về trí tuệ và không trở nên trì trệ, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần quy định thời gian không quá 2 nhiệm kỳ (10 năm). Đồng thời, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Chủ tịch nước thực hiện các quyền hạn và nhiệm vụ của mình trong điều kiện thuận lợi nhất, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cần quy định về quyền miễn trừ tư pháp với những ưu đãi cao nhất có thể cho Chủ tịch nước và có thể quy định theo hướng “chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi phạm tội phản bội Tổ quốc”.
Thứ năm, về diễn đạt, cần lưu ý sửa đổi đối với các Điều 97, 98 của Dự thảo ở một số điểm sau:
- Ở Điều 97, cần bổ sung vào quy định: “Phó chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội” cụm từ “theo đề nghị của Chủ tịch nước”. Đồng thời, cần viết đầy đủ từ “Chủ tịch nước” thay vì viết “Chủ tịch” như trong 2 Điều 97 và 98.
- Ở Điều 97, khi quy định về Phó chủ tịch nước, không nên dùng từ “có thể” trong đoạn “…và có thể được Chủ tịch ủy nhiệm thay Chủ tịch làm một số nhiệm vụ” vì đương nhiên Phó chủ tịch sẽ phải đảm nhiệm một số nhiệm vụ do Chủ tịch ủy nhiệm.
- Với Điều 98: Không nên dùng từ “khuyết” như trong quy định: “Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước” vì: Trong tiếng Việt, từ “khuyết” có nghĩa là “thiếu, không đầy đủ” nên không giống như ý muốn biểu đạt trong quy định (một cá nhân thì không thể rơi vào trường hợp “thiếu hoặc không đầy đủ”). Vì thế, nên thay từ “khuyết” bằng cụm từ: “trong trường hợp không có (do từ trần, từ chức hoặc bị miễn nhiệm, bãi nhiệm) Chủ tịch nước” sẽ hợp lý hơn.
TS VŨ ANH TUẤN(*)
(*) Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III