QĐND - Có lần, tôi đã nói với một phóng viên trẻ: Này, phố Lý Nam Đế của Hà Nội mình ngắn thôi, nhưng đã in biết bao dấu chân của các tướng lĩnh, nhà văn, nhà báo nổi tiếng.

Và hãy nhìn, một ông lão vai gầy mình hạc, túi vải khoác vai, lặng lẽ khiêm nhường  từ trong ngõ nhỏ của phố Nhà binh bước ra chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Ông không phải là danh nhân, nhưng buộc chúng ta phải ngả mũ.

Nhà báo Phạm Phú Bằng đó.

Chỉ còn 4 năm nữa là đến tuổi 90, nhưng ông vẫn mải miết đi, đi xa Hà Nội, lên tận các xã miền núi. Hơn 20 năm qua, ông đã đi khắp các miền Đông Bắc, Tây Bắc Việt Nam, nơi đồng đội ông đã trải qua chiến đấu, hy sinh, để thắp một nén hương tưởng nhớ và gặp gỡ, cảm ơn bà con các dân tộc.

Nhà báo Phạm Phú Bằng (bên trái) trong một lần tác nghiệp ở ga Núi Gôi (Vụ Bản, Nam Định). Ảnh: Phi Long.

Nào ai biết ông đi để làm gì, riêng chúng tôi, những người làm báo Báo Quân đội nhân dân, cơ quan cũ của ông, được ông cho xem vài tấm ảnh lúc ông tặng cầu mây cho một bản miền núi phía Bắc, lúc đại diện cho một tổ chức nào đó tặng ti vi, máy phát điện cho một xã nghèo tỉnh Hà Tĩnh…

Những ngày ở nhà, lặng lẽ như một người đưa thư, ông đến tặng người này người khác tờ báo mà ông đang cộng tác như ngầm nhủ: Này, viết cho chúng tớ với nhé!

Hơn 60 năm cầm bút, nhà báo Phạm Phú Bằng có lẽ là một trong ít nhà báo còn sống chứng kiến những sự kiện lịch sử của đất nước: Cách mạng Tháng Tám 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, Hiệp định Pa-ri 1973, Chiến thắng 30-4-1975, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc 1979; những trận đánh mà ông tham gia chiến đấu: Điện Biên Phủ, Gian-xơn Xi-ti 1967, Mậu Thân 1968…

Biết nhiều, viết cũng nhiều, tay nghề ai cũng thừa nhận là cao, nhưng ông hiếm khi trả lời phỏng vấn. Đi họp chỗ nào, ông cũng lặng lẽ ngồi kín đáo, chăm chú lắng nghe. Ông khiêm nhường, khiêm nhường quá nên đôi lúc làm cho lớp hậu sinh chúng tôi phân vân…

Cho đến một hôm, trong khi đối ẩm với ông ở một quán trà Nhật Bản trên phố Phan Đình Phùng, tôi buông một câu: “Chú ạ, bọn cháu rất kính trọng chú, nhưng chú lặng lẽ với thời cuộc quá. Phải chăng, thế hệ các chú quá lạm dụng từ nhẫn?”.

"Không, không phải! Đúng là tôi viết còn ít. Tôi vốn suy nghĩ chậm. Sự việc chưa lý giải thì chưa viết được. Mà chiến tranh thì dồn dập gần hết đời bộ đội của tôi. Đến lúc hòa bình lại thêm bao chuyện mới mẻ, đột ngột...”-ông nói.

Phạm Phú Bằng xuất thân trong một gia đình “danh gia vọng tộc”. Cụ nội của ông là quan Thượng thư Phạm Phú Thứ, từng là Tổng trấn Hải Yên (gồm 4 tỉnh: Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Yên) dưới triều Nguyễn. Là nhà canh tân đất nước với những ý tưởng táo bạo và khoa học, nhưng cụ từng bị đi đày, đi làm lính trơn bởi những tư tưởng vượt khỏi tầm suy nghĩ của vua quan và thời đại bấy giờ. Cha đẻ của ông là nhà Nho Phạm Phú Tiết, Tổng đốc Bình Phú (gồm tỉnh Bình Định và Phú Yên), sau năm 1945 tham gia kháng chiến rồi được phong cấp Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, Chánh án Tòa án Quân sự miền Nam. Sau năm 1954, cụ được điều chuyển về làm chuyên viên Bộ Văn hóa. Như vậy, Phạm Phú Bằng sinh trưởng trong gia tộc khoa bảng, nhưng không hiểu sao ông theo học trường sở rất ít, lý lịch phiên ngang chỉ ghi lớp 6, chưa có bằng trung học.

- Anh cứ tưởng tượng, mẹ tôi đẻ hơn mười lần, thì con cũng có đứa dốt, đứa kém chứ! Vả lại, có phải quan tổng đốc nào cũng giàu sang phú quý để cho con ăn học lên cao đâu.

16 tuổi, chàng thiếu gia Phạm Phú Bằng hăm hở theo đoàn quân cách mạng giành chính quyền ở Huế, rồi nhập ngũ theo đoàn quân Nam tiến… Ngày 20-10-1950, khi Báo Quân đội nhân dân ra số đầu tiên, từ chiến trường Khu 5 ông được điều về làm phóng viên. Học hành không nhiều, tay nghề non nớt, một loạt bài báo đầu ông viết được Ban biên tập cho thành… di cảo. Hồi đó, ông chưa ý thức rõ về nghề nghiệp, chỉ biết rằng nhiệm vụ nào được quân đội phân công cũng phải làm cho tốt. Sự nghiêm khắc của cấp trên buộc ông phải lao vào tự học, học ở đồng nghiệp, học ở cơ sở, và nghề báo bắt đầu ngấm vào ông, nhất là những tháng ngày tác nghiệp ở Mặt trận Điện Biên Phủ.

Sau năm 1954, ông được cử sang Trung Quốc học nghề báo. Ông bảo, ông học nghề lớt phớt, chỉ tranh thủ đi tham quan nhiều vùng trên cái đất nước bao la khôn lường đó! Ông đã lên vùng Đông Bắc Trung Quốc, theo dân đục băng câu cá, ra đồng tưới rau với bà con nông dân. Sau này vào chiến trường, dù gian khổ mấy, ông vẫn dành thời gian học tiếng Anh và đi thực tế xuống đơn vị. Đó là cách học nghề của ông, vì thế mà sau này ông là một trong ít các phóng viên Báo Quân đội nhân dân hiểu được 3 ngoại ngữ: Pháp, Anh, Trung.

- Những điều lý thú tôi sống, tôi trải qua đáng tiếc là chưa kịp nằm trong bài viết của tôi-ông nói.

Có những trận đánh nổi tiếng ông trực tiếp cầm súng chiến đấu như trận Gian-xơn Xi-ti ở Tây Ninh, khi Trung ương Cục miền Nam đã rút sang bên kia biên giới, ông ở lại cùng Quân Giải phóng chống càn.

Nếu tìm kiếm ở nhà báo Phú Bằng những tác phẩm lớn nào để lại cho hậu thế thì chưa có. Ông đồng hành với đội quân báo chí Cách mạng từ năm 1945 đến nay với những bước chân lặng lẽ và khiêm nhường. Nhưng các thế hệ Ban biên tập Báo Quân đội nhân dân và anh em phóng viên chúng tôi luôn tôn trọng ông, coi ông là một nhà báo lớn về cả nhân cách lẫn nghề nghiệp. Nay đã ở tuổi gần 90, ông vẫn được mời hiệu đính và phiên âm cho Nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng.

Ngắn gọn, súc tích, nhiều ẩn dụ và ý tưởng, cho dù trong thời chiến “nước sôi lửa bỏng” hay thời bình kinh tế thị trường nhộn nhịp, giữa những giọng văn hùng tráng của nhiều đồng nghiệp, các bài viết của ông vẫn điềm tĩnh, sẻ chia, đầy ắp chi tiết và hoài niệm. Ông nhớ cánh rừng Tây Ninh ngút ngàn và ẩm mốc, nhớ mùi súng đạn khét lẹt, mùi bùn đất pha mùi máu trên đường phố Sài Gòn Mậu Thân 1968, nhớ những xác không hồn của đồng bào Cam-pu-chia, nạn nhân của bọn diệt chủng… Hoài niệm đó qua các bài báo ngắn của ông mà tôi được đọc, như tia chớp xẹt qua, làm tôi phải bàng hoàng…

Nhưng mà này, viết báo chuyên nghiệp hay không chuyên cũng thế thôi, phải cố gắng nói được nguyện vọng của nhân dân, phản ánh hiện thực cuộc sống, phát hiện những mâu thuẫn, nguyên nhân nảy sinh trong xã hội-Ông nói-Suy cho cùng, mỗi chúng ta là một mảnh vụn không thể tách khỏi của gia đình và xã hội.

30 năm của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ, đại gia đình của ông tan nát. Bố ông lên chiến khu rồi về Hà Nội; mẹ ở lại Huế rồi vào miền Nam kiếm sống; anh chị em của ông ly tán khắp đất nước, chỉ sau năm 1975 mới gặp mặt ở TP Hồ Chí Minh. 30 năm đằng đẵng vừa đi các chiến trường vừa nhớ mẹ và người thân tha thiết, phải chăng điều đó đã làm nên một tính cách riêng của Phạm Phú Bằng trong sống và viết.

Giờ thì Phạm Phú Bằng vẫn đi, tuy có thưa hơn trước. Sau mỗi chuyến đi, có tác phẩm hay không cũng tùy hoàn cảnh. Ông bảo: Thực ra, cái chưa viết còn phong phú hơn những điều đã viết ra. Người cầm bút nào cũng vậy thôi. 
HỒNG SƠN